Lời Kinh Thánh

Hãy tin Đức Chúa Jesus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. Kinh Thánh - Công Vụ Các Sứ đồ 16: 31

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

ĐƯỜNG ĐI VÀ LỄ THẬT


Người Việt xưa nay là dân tộc kính thời Trời.  Đạo của người Việt là Đạo Thời Trời.  Người Việt tin tưởng Ông Trời là Đấng Tạo Hóa cầm quyền họa phúc trên trời đời sống của mỗi người khắp cả thế gian.  Nhưng nhiều người việt vẫn chưa biết Ông Trời mà mình đang tôn thờ và cầu khẩn cũng chính là Đức Chúa Trời theo kinh Thánh đã dạy.  Muốn biết chính xác về Đức Chúa Trời phải theo sự chỉ dẫn của Kinh Thánh.  Vì Kinh Thánh chính là Lời của Đức Chúa Trời.  Đạo Trời được bày tỏ theo Kinh Thánh.  Vậy tại sao đa số người Việt chưa theo đúng Đạo Trời mà cứ tiếp tục theo những tôn giáo khác không phải là Đạo Trời?
Một trong những lý do nhiều người Việt chưa tin theo Tin Lành là do chưa được thông tin đầy đủ về Tin Lành.  Lý do nầy dẫn đến nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc.  Sự hiểu lầm khi chưa được giải tỏa rất dễ trở thành định kiến.  Đã có định kiến đinh ninh rồi thì khó có sự thay đổi.  Định kiến tôn giáo càng khó thay đổi.  Định kiến không đúng về  Tin Lành đã dẫn đến sự phí phạm và mất mát của rất nhiều cuộc đời.  Định kiến cầm tù, bịt mắt một người cho đến khi người đó được giải phóng.  Tin Lành có quyền phép để thực hiện pháp mầu giải phóng tâm linh.  Tin Lành là con đường hẹp nhưng là con đường thật dẫn đến sự sống sung mãn, có ý nghĩa ở đời nầy và đời sau.


Có thể  bạn đang có những định kiến về Tin Lành do chưa nhận đủ thông tin chẳng?  Tôi hy vọng  sau khi đọc kỹ quyển sách nhỏ nầy, bạn sẽ tìm được câu trả lờ hợp tình lý cho những băn khoăn trăn trở của bạn trên con đường tìm kiếm chân lý cứu rỗi cho linh hồn mình.  Có thể bạn là người đầu tiên đón nhận Tin Lành vào gia đình và dòng tộc của mình.  Bạn sẽ giống như Áp-ra-ham, tổ phụ của dân tộc Do Thái, là người  đầu tin tin có một Đức Chúa Trời duy nhất và ông đã lập được mối liên hệ với Ngài.  Áp-ra-ham trở thành tổ phụ đức tin của chúng ta.  Bạn hãy dành ngay một cơ hội để tìm hiểu Tin Lành.  Tôi tin chắc rằng qua Tin Lành bạn sẽ biết Chúa là ai, Ngài đã làm gì cho chúng ta và Ngài muốn chúng ta làm gì.
1.  Có phải theo Đạo Tin Lành là bỏ ông bỏ bà?
Quan niệm trên đây của một số người thiếu khách quan là thành kiến không đúng do không hiểu cách người Tin Lành bày tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tổ tiên.  Cũng như mọi người trên khắp thế gian, người Tin Lành tin chắc rằng ai bỏ ông bỏ à là mang tội bất hiếu và đáng bị lên án.  Người Tin Lành phải biểu lộ sự hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ khi ông bà cha mẹ còn sống và phải xem đây là một bổn phận thực tế.  Phải phụng dưỡng ông bà cha mẹ với lòng biết ơn về công ơn sinh thành dưỡng dục của học đúng theo lời Chúa dạy.  Khi ông bà cha mẹ qua đời thì lo tang lễ chu đáo và phải luôn luôn tưởng nhớ đến người thân quá cố với tinh thần tiếc thương và hy vọng.  Hội Thánh Tin Lành có một nghi thức tang lễ nghiêm trang và đầy ý nghĩa.  Nhưng người Tin lành không thắp nhanhg, không lập bàn thờ bài vị, không van vái và không cúng bái người đã chết.  Có lẽ vì người Tin Lành không bắt chước làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố nên một số đồng bào cứ lầm tưởng như vậy là bỏ ông bỏ bà, thậm chí có người cho vậy lá bất hiếu.
Thực ra Đạo nào cũng dạy con người biết hiếu kính ông bà cha mẹ vì đó là nền tảng cho sự sinh tồn của nhân loại.  Đạo Tin Lành là đạo kính Chúa yêu người, lấy lời Đức Chúa Trời làm mẫu mực thiêng liêng ch cuộc sống, lại càng chuyên tâm dạy dỗ, khuyên bảo người tín hữu và con em mình hết lòng hiếu kính ông bà cha mẹ đúng như lời Chúa dạy.
Sỡ dĩ người Tin Lành không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố là vì vấn đề niềm tin cùng lý do thực tế.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, Đức Chúa Trời dạy rõ:  "Phải hiếu kính cha mẹ, như vậy ngươi mới được sống lân trên đất Chúa Hằng Hữu, ban cho" (Xuất Hành 20:12) và "ai đánh cha mẹ phải bị xử tử... ai chửi rủa cha mẹ, phải bị xử tử" (Xuất Hành 21:15-17).  Trong Kinh Thánh Tân Ước, Chúa Giê-su đã lên án thái độ giả hình của những người mượn lý do tôn giáo để bỏ bê bổn phận hiếu thảo đối với cha mẹ.  Thánh Phao-lô cũng liệt kê hành động bội nghịch cha mẹ như  là tội ác của nhân loại.  Ông khuyên "Con cháu trước phải học làm điều thảo đối với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ" (I Ti-mô-thê 5:4).  Ông cũng nhắc lại điều răn Chúa dạy:  "Phải hiếu kính cha mẹ" là điều răn đầu tiên kèm theo lời hứa, "nhờ đó con mới được phước và sống lâu trên đất" (Ê-phê-sô 6:1-3).  Người Tin Lành òoàn toàn tin tưởng và nghiêm chỉnh thi hành những bổn phận thiêng liêng nầy.  Nói một cách khác, người Tin Lành muốn được phước và sống lây trên đất thì phải thật lòng hiếu kính cha mẹ theo  như lời Chúa dạy.
Như thế tại sao người Tin Lành không cúng bái, không vái lạy ông bà cha mẹ úa cố?  Người Tin Lành cũng là người Việt Nam biết tôn trọng  những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tiền nhân để lại nhưng những phong tục nào không phù hợp với lời Chúa dạy thì người Tin Lành không dám vâng theo.
Thánh Kinh đã dạy rõ các tín hữu Tin Lành:  "Vả, lúc trước anh em còn tối tăm, nhưng bây giờ nên người sáng láng  trong Chúa.  hãy bước đi như các con sáng láng, vì bông trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật.  Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm" (Ê-phê-sô 5:8-11).  Dựa trên lời Chúa dạy, người Tin Lành hết lòng thành thật yêu thương cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi gia đình, dòng họ.  Người tin Lành quan niệm chữ hiếu có giá trị đích thực khi con cháu bày tỏ lòng hiếu thảo, báo đáp công ơn ông bà cha mẹ khi các vị ấy còn sống.  Một món ăn ngon lúc đối lòng, một cái áo ấm khi trời lạnh, một lon sữa, viên thuốc khi ốm đau, một lời thăm hỏi ân cần khi buồn bà mà  con cháu dâng tặng ông bà cha mẹ lúc các vị ấy còn sống, thiết tưởng có giá trị muôn phần hơn mâm cao cỗ đầy và tiếng khóc than thảm thiết lúc ông bà cha mẹ đã khuất.
Khi các vị đó quaq đời thì lập tức bước vào một thế giới khác do Chúa định.  Trường hợp nếu các vị đã tin thờ Chúa thì được về ngay với Chúa hưởng nước thiên đàng .  Chúa Giê-su phán:  "Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sấm cho các người từ khi  dựng nên  trới đất" (Ma-thi-ơ 25:34).  Nếu các vị trước kia không tin thờ Chúa thì nay chờ ngày Chúa phán xét công bình  như Thánh Kinh khẳng định:  "Theo như đã định cho loài người phải chết một lần  rồi chịu phán xét" (Hê-bơ-rơ 9:27).  Ông bà cha mẹ dù yêu thương chúng ta bao nhiêu đi nữa, một khi đã qua đời thì không còn liên lạc gì với trần gian, không có quyền ban phước hay giáng họa, không nhân hưởng được lễ vật gì, cũng không giải quyết được vấn đề gì tử sự cúng bái hay van vái của chúng ta.  Tất cả những phước hạnh tươi đẹp chúng ta đã có, đang có và sẽ được có, đều hoàn toàn do Đức Chúa Trời ban cho mà thôi.  chúng ta đáng phải hết lòng biết ơn Ngài, cầu khẩn với Ngài và vâng lời Ngài mới là phải lẽ.
Vì quan niệm như vậy nên người Tin Lành không cúng giỗ,  Tuy nhiên những khi có cuộc họp mặt truyền thống gia đình, những ngày kỷ niệm, người Tin Lành thường nhắc đến công ơn ông bà cha mẹ, cầu nguyện tạ ơn Chúa, xin Chúa ban bình an, sức khỏe cho người thân  còn sống, rồi cùng ăn uống vui vẻ thật thà.  người Tin Lành tôn trọng và thường xuyên chăn sóc mồ mả của ông bà cha mẹ và của người thân.  Do ảnh hưởng của lời Chúa dạy mà ở các nước Âu Mỹ theo đạo.  Tin Lành, các nghĩa trang được chăm sóc thật chu đáo, đẹp đẽ chẳng khác nào những công viên đầy hoa lá.  Người Tin Lành tôn trọng tình bà con ruột thịt, sẵn sàng yêu thương giúp đỡ bà con và những ai8 cần được giúp đỡ, nhưng vấn đề nào liên quan đến tín ngưỡng, đức tin thì người tin Chúa không dám trái lời Chúa dạy.
Mặt khác, thử xem phong tục thờ cúng của người Việt xưa nay.  Trên  bàn thờ tổ tiên, người ta thờ Ngũ-Đại-Tông gồm có năm bài vị thờ năm ông:  Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Hiển.  Khi có người trong tộc qua đời, thì con cháu đem tên người mới chết đặt vào chỗ ông Hiển và đưa ông Hiển lên thế chỗ ông Khảo, đưa ông Khảo lên ông Tổ, đưa ông Tổ lên ông Tằng, đưa ông Tằng lên ông Cao và đưa ông cao ra khỏi bàn thờ.  Thờ phượng như vậy làm sao cho đủ, vì thỉnh thoảng cứ phải bỏ bớt các vị trên trước, không thờ nữa.  Người Tin Lành tin rằng òoài người cần hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời theo lời Chúa dạy trong Thánh Kinh mới là thờ đầy đủ.  Ngài là Đấng Tạo Hóa và là Đấng bảo tồn muôn òoài vạn vật, Ngài cũng là Đấng cầm quyền họa phước trên đời sống loài người.  Thờ phượng Đức Chúa Trời giống như tưới gốc cây là tưới được cả cây, chứ khôn gpha3i chỉ tưới cành, tưới ngọn.  Hơn thế nữa, người Tin Lành rất kính sợ điều răn Chúa dạy:  "Các ngươi không được thời thần nào khác ngoài Ta" (Xuất Hành 20:3).
Như vậy quí đồng hương thấy người Tin Lành là người có hiếu theo phương cách đúng và thực tế không bỏ ông bà.  Mong quí vị mau mau trở lại thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng Chân Thần, như người con đã đi xa trở về nhà cha, vâng lời Thiên phụ chúng ta.  Đó mới là hiếu thảo chân thật, đó mới là sự thờ phượng đẹp lòng Chúa, đẹp lòng tổ tiên và ích lợi cho bản thân vậy.
2. Có phải Đạo tin Lành là Đạo của người Mỹ?  Theo Đạo Tin Lành là theo Mỹ?
Châu Mỹ mới được khám phá năm 1493 và nước Mỹ mới được lập quốc năm 1776, nghĩa là hơn 200 năm nay, trong khi Đạo Tin Lành đã có từ hơn 2000 năm trước, như vậy không thể nói Đạo Tin Lành là Đạo Mỹ được
Trên thế giới, có một số dân tộc có tôn giáo riêng như:  Ấn Độ có Ấn Độ giáo, Thái Lan có Phật giáo, Nhật bản có Thần giáo Shinto, Do thái có Do Thái giáo, nhưng Đạo Tin Lành không phải là đạo riêng của một dân tộc nào.  Đạo Tin Lành là Tin Tức Tốt Lành của Đức Chúa Trời dành cho toàn thể nhân loại, khôn gpha6n biệt màu da chủng tộc, ngôn ngữ, phái tinh.  Đạo Tin Lành thích hợp với mọi dân tộc ở khắp nơi trên thế giới.  Đạo Tin Lành có gốc rễ phát sinh từ nước Do Thái nhưng không phải là đạo của người Do Thái.  Phần đông người Mỹ theo đạo Tin Lành, nhưng đạo Tin Lành không phải là đạo Mỹ.  Đạo Tin Lành thịnh hành ở âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và nhiều nước ở Phi Châu.  Gần đây Đạo Tin Lành phát triển mạnh ở đại Hàn, Nam Mỹ và Trung Quốc.  Theo những bản thống kê chính xác, thì hiện nay một phần ba nhân ọoại trên thế giới đang tôn thờ Chúa Cứu Thế Giê-su.  Khoảng 86% người Mỹ, người Gia-nã-đại, và người Úc đều tin theo Chúa.  Kết quả hiển nhiên do Đạo Tin Lành đem lại cho các quốc gia, các  gia đình và từng đời sống con người đã chứng minh giá trị ưu việt và cụ thể của Đạo Tin Lành.
Một tác giả đã đi đến kết luận sau đây sau khi quan sát hiện trạng các quốc gia nghèo trên thế giới:  "The poor are lost and the lost are poor" (tạm dịch, những người nghèo khổ là những người chưa biết Chúa, và những người chưa biết Chúa là những người nghèo khổ).  Mức sống của một quốc gia thường được định mức theo tuổi thọ trung bình, tỉ lệ tử vong của trẻ em sơ sinh và tỉ lệ xóa nạn mù chữ.  hầu hết những quốc gia có mức sống thấp nhất là những quốc gia có ít người thờ Chúa nhất.  Trái lại những quốc gia có mức sống cao nhất là những quốc gia có nhiều người thờ Chúa nhất.
Thật ra Đạo Tin Lành bắt đầu từ khi Chúa Giê-su giáng sinh tại thành Bết-lê-hem, nước Do Thái.  Trong đêm Đấng Cứu Thế ra đời, một thiên sứ của Đức Chúa Trời đã đến loan báo tin mừng cho nhân loại:  "Đừng sợ chi, vì này ta báo cho các người một tin lành, sẽ là sự vui mừng lớn cho muôn dân..." (Lu-ca 2:9).  Chính sự giánh sinh của Chúa Cứu Thế đã chia đôi dòng lịch sử của nhân loại thành ra trước Chúa và sau Chúa.  Niên hiệu hằng năm mà cả thế giới đang dùng được tính từ năm Chúa giáng sinh.  Sau khi chịu chết vì tội lỗi nhân loại trên thập tự giá.  Chúa Giê-su đã từ cõi chết sống lại, chiến thắng từ thần.  Rồi trước khi về trời đã truyền lệnh cho các môn đồ,"Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người.  Ai tin và chịu Báp-têp sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị kết tội" (Mác 16:15, 16).  Dưới sự tát động của quyền phép Đức Thánh Linh, các môn đồ Chúa đã vâng lệnh Ngài đêm Tin Lành truyền bá khắp nơi trên thế giới, chiến thắng tối tăm, sợ hãi, biến đổi hẳn khuôn mặt văn hóa của thế giới, thay đổi hẳn số phận hẩm hiu của biết bao nhiêu cuoc đời.
Năm 1911 Đạo Tin Lành mới được truyền bá đến Việt Nam do các giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (Christian and Missionary alliance) ở Bấc Mỹ, kết quả thành lập được Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.  Vào các thập niên 60 và 70, các Hội Truyền Giáo Tin Lành khác lần lượt đến tại Việt Nam và thành lập các Hội Thánh Báp-tít, Mennonite, Ngũ Tuần...  Ngay từ những năm tháng đầu tiên, người Tin Lành ở Việt Nam đã sớm tiến đến tin thần tự lập, trị và tự truyền bá Tin Lành cho đồng bào Việt Nam.  Xin nhớ Đạo Tin Lành của Chúa Giê-su trong Kinh Thánh chỉ có một trên thế giới và chúng ta nên phân biệt với các tổ chức giáo phái khác nhau đang truyền bá Tin Lành.
Người đặt câu hỏi trên đây dường như có ý muốn nói rằng Đạo Tin Lành là đạo của người Mỹ, chúng ta là người Việt Nam thì theo đạo người Việt Nam.  Thật ra những truyền thống tôn giáo mà nhiều người Việt Nam đi theo cũng không phải phát xuất từ Việt Nam.  Nho Giáo, Lão Giáo xuất phát từ Trung Quốc, Phật Giáo xuất phát từ Ấn Độ và được truyền đến nước ta chủ yếu qua ngã Trung Quốc.  Thời xưa, vì sự giao thông thế giới bên ngoài còn hạn chế, người Việt Nam chưa có cơ hội tiếp xúc với nền văn hóa Cơ Đốc Giáo, nhưng chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa Trung Quốc.  Thậm chí chữ viết của người Việt Nam xưa kia cũng viết theo lối Hán Tự; học thì học Tứ Thư, Ngũ Kinh của người Trung Hoa.  Vì bị người Trung Hoa đo hộ hàng ngà năm, nên cả nền văn hóa lẫn truyền thống tôn giáo của người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng theo người Trung Hoa là chuyện không tránh khỏi.
Nhưng người Việt Nam là một dân tộc bất khuất, luôn tiếp nhận cái hay cái tốt của các dân tộc khác để biến thành cái hay cái tốt của mình.  Vì vậy không có người Việt Nam nào theo Phật Giáo nói rằng tôi theo đạo Ấn Độ, cũng không người Việt nam nào chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo nói rằng tôi theo đạo Trung Quốc.  Vì thế có nhiều người Âu Mỹ theo Đạo Tin Lành và nỗ lực đem Tin Lành truyền bá khắp thế giới, ta cũng không nên nói Đạo Tin Lành là Đạo của Mỹ, không dính dáng đến người Việt Nam.  Điều quan trọng là chúng ta hãy tìm hiểu xem Đạo Tin Lành dã tin gì, giảng 2i và đã đem lại được ích lợi gì cho nhân loại nói chung và cho người Việt Nam theo Đạo Tin Lành nói riêng.
Người việt Nam là một dân độc kính sợ Đức Chúa Trời.  Ngày xưa, hằng năm các vua chúa thay mặt toàn dân lập đàn tế Trời (thường gọi là tế Nam Giao) và dân chúng thường lập bàn thờ Thiên ở trước nhà để cầu Trời.  Gặp khó khăn người Việt Nam thường kêu:  Trời ơi!  Nhờ Trời!  Cầu Trời!  sống thì ăn cơm Trời, uống nước Trời.  Chết thì nói:  Về chầu Trời hoặc Trời kêu ai nấy dạ.  Câu ca dao sau đây là một bằng chứng về đức tin nơi Đức Chu1aq Trời là Đấng Toàn Năng:  "Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm."  Đo số người Việt Nam sống bằng nông nghiệp đã biết rõ được com no áo ấm là nhờ ơn Trời.
Biết có Đức Chúa Trời nhưng không thờ Trời cho đúng cách là đáng tiếc.  Biết ơn Trời nhưng không biết làm thế nào cho đẹp lòng Trời là điều đáng thương.  Như vậy người Việt Nam nên quay về thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách Ngài chỉ dẫn qua Thánh Kinh là hợp tình, hợp lẽ và cần thiết lắm thay.
3.  Phải chăng Đạo Tin Lành cũng là Đạo tin theo để làm lành?
Mọi người Việt Nam điều biết phân biệt điều lành, điều dữ.  Ai cũng biết, "Ở hiền gặp lành."  Ai cũng muốn ăn ngay ở lành.  Chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo, người Việt Nam còn biết quí trọng đạo làm người, biết ơn quân sư phụ, biết giữ nhân, nghĩa lễ, trí, tín.  Đa số người Việt Nam đều sùng đạo, không theo tôn giáo này thì cũng theo tín ngưỡng khác.  Từ đó người Việt Nam quan niệm cho rằng Đạo nào cũng tốt, Đạo nào cũng dạy cho người ta ăn ngay ở lành vậy Đạo Tin Lành cũng là Đạo tin theo để làm lành.  Nếu Tin Lành chỉ là đạo tin theo để làm lành thì không cần theo, vì mình đã có đạo rồi, thậm chí đạo của mình đang có đông người theo.
Thật ra chữ Tin Lành có nghĩa là Tin Tức Tốt Lành chữ không có nghĩa là tin theo để làm lành.  Nếu truyền  thêm cho người Việt Nam một đạo nữa dạy làm lành thì cũng bằng thừa vì từ nhỏ đến lớn, ai cũng biết cần phải làm lành.  Vấn đề ở đây là òoài người dù ý thức cần làm lành nhưng không đủ khả năng làm lành cho trọn Thánh Phao-lô đã diễn tả sự thật nầy như sau:  "Tôi biết điều lành chẳn ở trong tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn, vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn.  Vậy tôi thấy có một luật nầy trong tôi 'khi tôi muốn làm điều lành thì diều dữ dính dấp theo tôi'" (La-mã 7:18-21).  Một thánh nhân mà còn tự thú như vậy huống chi chúng ta là phàm nhân.  Sở dĩ chúng ta không làm lành trọn được là vì luật tội lỗi đang hiện diện trong mỗi con người chúng ta chế ngự tâm hồn chúng ta, khiến chúng ta không có khả năng làm lành cho trọn.  Dù suốt đời ta cố gắng làm lành nhưng chỉ một ngày ta lỡ làm ác thì cũng luống công.  Kinh Thánh chép rằng:  "Người nào giữ toàn bộ luật pháp, nhưng chỉ phạm một điều là coi như đã phạm tất cả" (Gia-cơ 2:10).
Dù ta chưa làm gì nên tội trước luật pháp của loài người thì trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta vẫn bị kể là tội nhân.  Dù ta có làm được bao nhiêu việc làm tốt đối với đời, thì trước mặt Chúa vẫn còn thiếu hụt, không có gì đáng kể.  Những việc công bình của loài người được Kinh Thánh mô tả như "áo nhớp."  Áo chỉ dùng để che đậy bề ngoài Đức Chúa Trời lại không chú trọng bề ngoài nhưng Ngài chú trọng tấm lòng.  Tiêu chuẩn của Chúa là trọn vẹn, mà loài người thì bất toàn.  "Mọi người đều phạm tội, hụt mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời."  Thánh Phao-lô làm chứng tiếp:  "Thật bất hạnh cho tôi!  Ai sẽ cứu tôi thoát ác nô lệ của xác thịt tội lỗi hư hoại nầy!"  Rồi ông vui mừng phát biểu:  "Tạ ơn Đức Chúa Trời, tôi được giải cứu nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta" (La-mã 7:24-25).
Cảm tạ Đức Chúa Trời, vì Chúa biết rõ ngoài người không có khả năng tự mình giải thoát ra khỏi quyền lực ghê gớm của tội lỗi nên "đang khi ch1ng ta còn yếu đuối, Chúa Cứu Thế đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội."  Nhờ sự chết đền tội của Chúa Cứu Thế Giê-su và quyền năng của Đức Thánh Linh, khi một tội nhân ý thức tội, ăn năn tội, quyết tâm từ bỏ tội quay về cùng Chúa, thì Chúa ban quyền năng tái tạo người đó trở nên mới, đồng thời ban cho người đó có khả năng vừa muốn, vừa làm những việc lành mà trước đó họ không làm được bằng sứ riêng.  Những việc lành người tin Chúa làm được là kết quaq3 của một đời sống mới yêu Chúa và yêu người.  Tình thương làm được tất cả...
Nếu hiện nay quí đồng hương đang theo một tôn giáo dạy người ta làm lành, đó cũng là điều tốt.  Thế nhưng chính trong quá trình cố gắng làm như thế, quí vị cũng đã nhận ra sự thật là mình làm lành không trọn, lòng không bình an, không biết chắc nỗ lực đến mức nào mới đủ để được lên thiên đàng.  Tất cả mọi người đang tự tu, tự cứu và dựa và việc lành để được cứu rồi đều có một tâ trạng bất an như thế.  Người Tin Lành thì luôn luôn tin chắc mình đã được cứu rỗi, với tâm trạng bình an hy vọng.  Người Tin Lành tin chắc như vậy?  Tại vì sự cứu rỗi là quà tặng do Chúa Cứu Thế Giê-su làm trọn xong xuôi và ban tặng cho chúng ta.  Quà tặng nầy do lòng thương xót vô hạn Chúa ban cho:  "Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là đời sống vĩnh cữu trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta."  Đức Chúa Trời đã tuyên hứa như thế và Ngài là Đấng thành tín, Ngài không bao giờ thất hứa.  Rất mong quá đồng hương lấy lòng tin tiếp nhận Tin Lành của Chúa Cứu Thế Giê-su để hưởng được ơn cứu rỗi tuyệt vời, vô giá do Chúa ban cho.
4.  Đạo Tin Lành khác với Đạo Công Giáo La-mã như thế nào?
Đạo Tin Lành và Đạo Công Giáo có cùng một gốc mà ra.  Cả hai đều có cùng niềm tin nơi Đức Chúa Trời Ba Ngôi căn cứ trên Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước.  Nhưng sự khác biệt chính giữa hai giáo hội này là vị trí và thẩm quyền mỗi bên dành cho Thánh Kinh.  Mặc dù người Công Giáo tin rằng Thánh Kinh được Đức Chúa Trời soi dẫn, họ cũng tin rằng truyền thống Giáo Hội trải qua dòng lịch sử do các Giáo Hoàng và Giáo Hội Nghị lập thành có giá trị quyết định trong các vấn đề niềm tin và giáo lý.  Vì đó trải qua nhiều năm tháng, Giáo Hội Công Giáo La-mã đã thêm vào những giáo lý không có trong Kinh Thánh.
Ta có thể nhắc qua một số giáo lý thêm vào đó như sau.  Cầu nguyện trực tiếp với Đức Mẹ, với các thánh và các thiên thần (năm 600); mua chứng thư xá tội để giảm thiểu thời gian ở lò luyện tội (năm 1190); xưng tội với Linh mục (năm 1215); Thánh Kinh được liệt vào danh sách cấm giáo dân đọc (Toulouse năm 229); lò luyệt liệt (năm 1436); truyền thống Giáo Hội được thừa nhận có uy quyền tương đương Thánh Kinh bởi Công Đồng Trent (năm 1545); Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được Giáo Hoàng Pius IX công bố năm 1854; Sự Vô Ngộ (không sai lầm) của Giáo Hoàng được Công Đồng Vatican công bố năm 1870; Giáo Hoàng Benedict XV công bố Đức Mẹ là Đấng đồng cứu chuộc với Chúa Giê-su; và Đức Mẹ hồn xát lên trời được Giáo Hoàng Pius IXX công bố năm 1950.
Người Tin Lành tin tưởng Thánh Kinh là uy quyền duy nhất và đầy đủ của đức tin.  Người Tin Lành chỉ tôn trọng những truyền thống nào của Hội Thánh phù hợp với Thánh Kinh.  Người Tin Lành muốn trở về với cội nguồn đức tin và hình thức sống đạo theo như Thánh Kinh chỉ dẫn, không thêm, không bớt.
Vào thời cải chánh Giáo Hội (từ khoảng năm 1500 đến 1650) ở Châu Âu, môt tu sĩ Công giáo La-mã người Đức tên Martin Luther, đã tái khám phá tín lý xưng nghĩa bởi đức tin do sứ đồ Phao-lô viết ra trong thư La-mã thuộc Thánh Kinh Tân Ước.  Luther lý luận:  "Nếu một người được xưng nghĩa (tức được kể là trắng án) khỏi tội lỗi duy bởi đức tin đặt nơi chúa Giê-su như Thánh Kinh thẳng định, thì cần gì ta phải đi hành hương, phải tự hành xác đễ thú tội, cần gì mua chứng thư xá tội, cần gì trải qua lò luyện tội và chịu các phép bí tích sau cùng?"  Vì những khám pháp của Luther đã cắt đứt truyền thống của Công Giáo La-mã nên ông bị Giáo Hội thời bấy giờ dứt phép thông công.
Tuy nhiên phần lớn người Đức đươn thời đã lũ lượt kéo đến nghe ông giảng Thánh Kinh.  Từ đó Giáo Hội Lutheran đã được thành lập và phát triển cho đế ngày nay.  Rồi những nhà thần học khác như John Calvin, một người Pháp, cũng đã thách thức các giáo huấn của Công Giáo La-mã và từ ảnh hưởng của Calvin, các Giáo Hội Cải Cách, Giáo Hội Trưởng Lão đã hình thành.  Về sau các Giáo Hội Anh Quốc, Giáo Hội Báp-tít, Giám Lý, rồi Ngũ Tuần... được thành lập.  Những Giáo Hội này, xuất phát từ sự phản kháng (protest) nhằm cải cách Công Giáo La-mã nên thường được gọi chung là Giáo Hội Protestant.  Thực ra phải gọi Đạo Tin Lành là Evangelical Church.  Người Công Giáo Việt Nam trước đây gọi người Tin Lành là Thệ Phản.  Ngày nay người Công Giáo gọi người Tin Lành là Anh Em Ly Khai.
Điều đáng mừng là giữa lòng Giáo Hội Công Giáo đang có phong trào canh tân, trở về nghiên cứu Kinh Thánh, canh tân ân sũng và nỗ lực truyền bá Phúc Âm, đồng thời không ngừng cải thiện mối quan hệ với người Tin Lành trong phong trào hiệp nhất.
Thiết tưởng sự kiện có nhiều giáo phái khác nhau trong Cơ Đốc Giáo chẳng khác nào một cây cổ thụ có nhiều cành, nhánh.  Vấn đề quan trọng là cây này có là bóng che mát cho bản thân ta trong cuộc đời đang oi bức, trái cây nầy có ngon ngọt bổ ích cho linh hồn ta đang đói khát hay không.  Hơn nhữa nhánh câ ấy có đang lưu chuyển sự sống từ gốc cây thiêng liêng là Chúa Cứu Thế Hằng sống hay không.  Giáo phái hay nhà thờ không cứu rỗi được linh hồn của chúng ta.  Chỉ có Chúa Cứu Thế Giê-su mới có quyền năng cứu vớt chúng ta ra khỏi tội lỗi và đưa chúng ta đến thiên đàng.  Việc lựa chọn một giáo phái để tham gia là tùy hoàn cảnh và tùy ý thứ clu75a chọn riêng của mỗi người.  Điều quan trọng là qui đồng hương nên sáng suốt lựa chọn cho mình một Hội Thánh trung tín rao giảng và làm theo lời Chúa, thế hiện đức tin, hy vọng và tình yêu thương như Chúa Cứu Thế Giê-su dạy dỗ, ban truyền.
5.  Đạo Tin Lành khác với các tôn giáo Á Đông như thế nào?
Đạo Tin Lành và các tôn giáo Á Đông có nhiều điểm dị biệt về niềm tin và niềm hy vọng.  Thượng Đế của tư tưởng Á Đông không mang ngôi vị các biệt, còn Đức Chúa Trời của Thánh kinh thì có ngôi vị.  Theo Thánh Kinh, Ngài là một Đấng Toàn Năng, Toàn Tri, Toàn Tại, Toàn Thiện, Toàn Mỹ và vô cùng siêu việt nhưng Ngài cũng có bản tính gần gủi với nhân tính của chúng ta.  Nơi một số tôn giáo Á Đông, Thượng Đế là vạn vật và vạn vật là Thượng đế, còn Thánh Kinh dạy rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa độc lập với các tạo vật do Ngài dựng nên.
Luật về nghiệp (Karma) là một tín ngưỡng phức tạp nơi nhiều tôn giáo Á Đông.  nghiệp tốt hay những việc làm tốt là phương thế duy nhất để con người tự giả thoát khỏi vòng luân hồi, còn nghiệp xấu sẽ làm con người tái đầu thai vào những kiếp thấp hơn kiếp trước.  Theo truyền thống tín ngưỡng Á Đông, con người phải nỗ lực tự giải cứu bằng việc làm và công đứcv riêng.  Trong khi đó Thánh Kinh lại dạy rằng, "Đức Chúa Trời cứu rỗi không vì công đức của chúng ta, nhưng bởi lòng nhân từ Ngài ban Thánh Linh tẩy sạch tội lỗi và đổi mới chúng ta" (Tít 3;5).  Các việc làm của người tín hữu có chỗ đứng rất quan trọng nhưng đó là kết quả xuất phát từ sự cứu rỗi người ấy đã nhận được từ nơi Chúa và là cách thể hiện lòng biết ơn của người ấy đối với Chúa.  Việc làm và công đức không phải là điều kiện để được cứu rỗi từ Chúa.
Thánh Kinh cũng không hề dạy rằng có một cơ may thứ hai cho việc đầu thai chuyển kiếp.  Nếu mỗi người đều có kiếp trước tại sao không ai tu sửa?  Không tu sửa được thì không có hy vọng Thánh Kinh khẳng định mỗi người là một con người độc đáo, mỗi người có một linh hồn riêng và phải chịu trách nhiệm riêng trước mặt Đức Chúa Trời trong ngày Ngài phán xét thế gian.  Thánh Kinh quả quyết,"Theo nhưu đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét" (Hê-bơ-rơ 27).  Như vậy không có chuyện đầu thai chuyển kiếp.
Đối với các tôn giáo Á Đông, lịch sử không có mục đích hay ý nghĩa gì cả, đó là cuộc đấu tranh không bao giờ dứt.  Trong khi đó Thánh Kinh giới thiệu một Đức Chúa Trời siêu việt đang điều khiển dòng lịch sử tiến đến mục đích tối hậu là thiết lập một vương quốc vĩnh cửu do Chúa Giê-su cai trị trong sự chính trực, công bình.
Điểm khác biệt nữa là các tôn giáo Á Đông thường thờ lại hình tượng con người là điều Chúa cấm.  Thánh Kinh gọi đó là hình thức "thờ phượng vật thọ tạo thay cho Đấng Tạo Hóa là Đấng đáng được tôn thờ muôn đời."  Trong khi đó Chúa Cứu Thế đã dạy rõ, "Đức Chúa Trời là thần nên ai thờ lại Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Ngài."  Thánh Kinh khẳng định, "Nguyện sự tôn quí vinh hiển đời đời vô cùng về nơi vua muốn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức chúa Trời có một mà thôi!  A-men" (I ti-mô-thê 1:17).
Tất cả những tôn giáo Á đông và những tôn giáo khác trên thế giới đều là những cố gắng của con người đi tìm Đấng Tạo Hóa, trong khi đó đạo Tin Lành là sự cố gắng của Đức Chúa Trời tìm kiếm con người qua thân vị Chúa Cứu Thế Giê-su.  Con người hữu hạn không tìm được.  Đấng vô hạn, nhưng Đấng vô hạn có thể tìm đến với con người.  Con người không thể lấy sức riêng để lên thiên đàng, nhưng Đức Chúa Trời có thể đem thiên đàng ban tặng cho chúng ta.  Bổn phận của chúng ta là đón nhận quà tặng của Ngài.  Khước từ môn quà cứu rỗi của Chúa là mặc tội với Đức Chúa Trời.
Vì vậy điều mong ước sâu xa của chúng tôi là quí đồng hương lấy đức tin đón nhận phước hạnh của nước thiên đàng ngay trong đời này do Chúa Cứu Thế sẵn ban cho những người tin cậy và vâng lời Ngài.  Chúa Cứu Thế sẵn ban cho những người tin cậy và văng lời Ngài.  Chúa Cứu Thế muốn quí vị sống một đời sống sung mãn trong đời nầy và hy vọng ngời sáng chắc chắn cho đời sau.  Phước hạnh nầy sẽ đến cách sống động ngay khi quí vị tin cậy Chúa Giê-su.
Xin quí vị hãy suy xét cho kỹ giữa triết lý đời nầy với chân lý Thánh Kinh để chọn cho mình con đường sống, bảo đảm yên tâm không bao giờ hối tiếc.  Triết lý sản phẩm của con người còn chân lý là sự mạc khải của Đức Chúa Trời soi đường dẫn lối chúng ta.
6.  Tôi đã có Đạo rồi, tại sao tôi theo Bạo Tin Lành?
Người Việt ta hay nói theo một tôn giáo là đi theo đạo.  Điều nầy, ngầm ý nói đến một con đường.  Đạo là con đường.  Nhưng con đường ta đang đi có dẫn ta đến mục đích mong muốn hay không là điều vô cùng quan trọng.  Con đường đạo quyết định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.  Giả sứ chúng ta đang đi đường đến một nơi mà chúng ta chưa hề đặt chân tới, khi có người địa phương biết ta đi lạc và bảo ta đi lại đúng đường thì ta sẽ làm chi?  Dĩ nhiên ta cần chỉnh lại cho đúng hướng đi.  Hoặc giả ta đang sắp chết đuổi giữa biển khơi, nguy hiểm đến tính mạng, nếu có người đem tàu cấp cứu đến cứu gúp, ta lại từ chối hay sao?  Hỏi tức là trả lời rồi vậy?
Các giáo chủ đời nầy thường chỉ hướng cho chúng sinh tự đi tìm chân lý hoặc bảo hãy tự thắp đuốc mà đi, nhưng Chúa Cứu Thế Giê-su tuyên bố rõ ràng, "Ta là Con đường, Chân lý và Nguồn sống.  Nếu không nhờ Ta, không ai đến được cùng Cha" (Giăng 14:6).  Thử hỏi ai biết rõ đường lên thiên đàng cho bằng Chúa Giê-su là đấng từ trời xuống.  Và ai có thể đưa chúng ta vào thiên đàng cho bằng Chúa Giê-su là Đấng đã chiến thắng sự chết và sống lại?  Kinh mong quí vị suy xét để chọn con đường theo Chúa Giê-su là con đường sống duy nhất trên thế giới nầy.  Kinh Thánh chép, "Chẳng có sự cứu rỗi trong một Đấng nào khác, vì ở dưới trời nầy chẳng có danh nào khác ban cho loài người để chúng ta nhờ đó mà được cứu" (Công vụ các Sứ đồ 4:12).


Có nhiều người Việt Nam muốn trở lại cùng Chúa nhưng còn ngại ngừng vì một vài mối lo sợ không chính đáng.  Chẳng hạn sợ thần linh hoặc ông bà trách phạt, sợ người ta nói mình không trung thành với tôn giáo cũ, sợ bạn bè cho mình là yếu đuối, sợ tội lỗi nhiều không biết Chúa có tha thứ không, sợ theo Chúa thì đành bỏ hết những thú vui tạm bợ trần gian.  Nhưng thưa bạn, chúng ta trở về với Đức Chúa Trời là cha, là Đấng Tối Cao thì còn sợ ai?  Ngài sẽ tiếp đón và bảo vệ chúng ta.  Ngài sẽ dẫn  dắt chúng ta từng bước đi theo con đường của Ngài.  còn gì phước hạnh hơn khi tội chúng ta được Chúa tha, linh hồn được Chúa cứu?  Trái lại còn gì khủng khiếp hơn khi lìa đời kêu.  "Trời ơi!" chỉ để nghe được Chúa phán:  "Ta không hề biết người!" hoặc "Hãy quăng nó ra nòoài là nơi có khóc lóc và nghiến răng!"
Chúa Giê-su đã từng cảnh cáo.  "Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì?  Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?" (Ma-thi-ơ 16:26).
Có nhiều người Việt Nam không thiếu gì về phương tiện vật chất, nhưng phần tâm linh thì khô khan, trống vắng, đời sống gia đình và bản thân buồn bã, cô đơn, sống không thấy ý nghĩa.  Xin hãy nghe Cúa Giê-su mời gọi:  "Những ai đang mệt nhọc và gánh nặng ưu tư, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho các con được nghi ngơi.  Ta có lòng khiêm tốn dịu dàng; hãy mang ách với Ta và học theo Ta, các con sẽ được an nghĩ trong tâm hồn.  Vì ách Ta êm dịu và ganh Ta nhẹ nhàng" (Ma-thi-ơ 11:28-30).
Kinh thánh cho biết khi một người từ bỏ con đường lầm lạc và quay về cùng Chúa thì cả thiên đàng sẽ hoan hỉ vui mừng.  Chúa Giê-su tiết lộ, "Ta nói cùng các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho một kẻ có tội ăn năn" (Lu-ca 15:10).  Đặc biệt nhất là mọi người thật lòng trở về cùng Chúa đều hưởng được sự bình an và vui mừng khôn xiết.  Kinh Thánh chép về người thu thuế thành Giê-ri-cô là Xa-chê, người cai ngục thành Phi-líp, người đội trưởng quân đội La-mã ở thành Sê-sa-rê...  Những người này đã cùng với cả gia đình mở tiệc ăn mừng vì được trở lại cùng Chúa.  Kinh Thánh cũng chép người phụ nữ Sa-ma-ri đã hớn hở vui mừng giới thiệu Chúa cho toàn thể đồng hương của mình sau khi đích thân gặp Chúa.  Kinh Thánh còn người tìm được kho báu, người con đi hoang trở về được  người cha tiếp đón, người mù được sáng, người nô lệ được tự do, người mắc nợ lớn được tha, người chết được sống lại.  Niềm vui nầy cũng rất thật và sau sắc đối với hàng tỉ người đang theo Chúa trên khắp thế giới ngày nay.  Rất mong chính bạn cũng từng trải được kinh nghiệm bình an vui thỏa nầy trong Chúa Cứu Thế Giê-su.
7.  Muốn theo Đạo Tin Lành tôi phải làm gì?
Theo Đạo Tin Lành không phải là theo một tổ chức tôn giáo nhưng là tái lập mối liên hệ với Chúa.  Đó là quyết định tin cậy và trở lại đi theo Chúa Cứu Thế Giê-su.  Ngài đang sống và đang dìu dất chúng ta trên con đường dẫn vào nguồn sống.  Vì vậy điều cần thiết là chúng ta phải nghe Ngài chỉ dẫn và vâng lời Ngài.  Chúng ta phải thiết lập mối liên hệ mật thiết với Ngài ngay hôm nay.  Chúa Giê-su phán:  "Kỳ đã trọn, nước Trời đã đến gần, các con hãy ăn năn và tin Tin Lành" (Mác 1;15).
Ăn năn tội là bạn nhận biết mình có tội với Chúa, vì đã đ theo ý riêng, không đi theo ý Chúa, không thờ phượng Chúa, bây giờ bạn đau buồn về tội lỗi và quyết tâm từ bỏ tội, chuyển hướng quay về cùng Chúa.
Tin nhận Chúa là bạn nhận biết rằng Chúa Giê-su là Con Một Đức Chúa Trời đã giáng thế làm người, đã hy sinh mạng báu trên thập tự giá, đã từ kẻ chết sống lại, tất cả những việc Ngài đã làm là làm cho chính bạn.  tin nhận Chúa là bạn cảm xúc biết ơn trước tình yêu của Chúa và bạn quyết tâm tin cậy Chúa, phó thác cuộc đời mình cho Chúa, trung tín tiến bước trên con đường theo Chúa.
Kinh Thánh chép:  "Bởi vì đạo rất gần con, đạo ở ngay trong miệng, trong lòng con.  Đó là đạo đức tin chúng tôi hằng công bố:  "Nếu miệng anh em xưng nhận Chúa Giê-su là Chúa, và lòng anh em tin Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại thì anh em được cứu rỗi'.  Vì do lòng tin, anh em được kể là người công chính, và do miệng xưng nhận Ngài, anh em được cứu rỗi.  Vì tất cả những người kêu cầu danh Chúa đều được cứu rỗi" (La-mã 10:8-13).  Chúa Giê-su phán:  "Nầy, Ta đứng bên ngoài gõ cửa, nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa ra, thì Ta sẽ vào..." (Khải thị 3:20).

Bạn đã mở cửa mời Chúa ngự vào lòng bạn chưa?