Lời Kinh Thánh

Hãy tin Đức Chúa Jesus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. Kinh Thánh - Công Vụ Các Sứ đồ 16: 31

Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

Từ ma thuật đến Đấng Christ (2)


Sự Khởi Hành
Bà bếp bảo tôi: “Mầy dại quá, Sao phung phí tiền mua thuốc hút! Nếu bà chủ biết được thì phiền phức lắm đó”. Tôi nghĩ: Chuyện đó chẳng ăn thua gì vì tôi đã gặp rắc rối hoài mà! Dù tôi chỉ hút lén ở phòng ngủ thôi, nhưng lâu ngày bà chủ cũng khám phá ra. Bà bếp cũng như bà chủ, không ai biết được nỗi buồn chán mà tôi đang gánh chịu; nếu có ai thông cảm được, chắc họ hiểu tại sao tôi lại hút nhiều như thế. Tôi học cách làm việc rất mau nhưng cũng không khỏi nhiều lần hỏng việc. Như chuyện tôi được biết hai đứa trẻ trong nhà. Từ đầu, bà chủ đã giữ không cho hai đứa trẻ tiếp xúc với tôi.
Có lẽ bà không muốn chúng bắt chước cái giọng điệu và ngôn từ của tôi. Thật ra, không phải lúc nào cha Mẹ cũng thành công đâu. Tôi đến hiểu chúng nhiều hơn, nhân một buổi tối nọ, bà chủ giao hai đứa trẻ cho tôi trông nom khi ông bà có việc phải đi. Còn Bếp thì bận việc khác. Hai đứa trẻ bắt ngay lấy cơ hội, tha hồ vui đùa với tôi. Chúng than rằng chúng đói bụng và nhờ tôi lấy thức ăn cho chúng. Tôi dẫn chúng vào bếp và để mặc chúng muốn lấy gì tùy ý. O có biết bao thứ mà chúng khoái! Tôi giúp chúng lấy nào bánh, nào kem, nào trái cây... Chúng ta có một buổi tối thích thú với nhau và dần dần hiểu nhau hơn. Sáng hôm sau bà chủ và Bếp khám phá ra những gì đã mấy! Hai đứa bị vặn hỏi nhiều lần; chúng đổ lỗi hết cho tôi. Bà chủ rất giận dữ. Tôi thật sự gặp rắc rối. Tôi nổi cáu: 

_“Nếu bà ở trường hợp của tôi thì bà làm sao khi tụi nhỏ cứ đòi ăn? Bà phải lấy cho chúng ăn chứ, phải không?”. 

_“Tôi nghĩ là em cũng có ăn, Đo-rinh (Doreen) ạ” 

_“Ừ, nếu tôi có ăn chùng, ăn lén thì đã ăn cả tuần nay rồi, bà cũng thấy chứ?”. 

Bà bếp cứ cười,còn tôi thì không; tôi không cho rằng đây là một chuyện đùa. Tôi thu dọn đồ đạc để ra đi. Bà bếp theo tôi, rồi bà chủ, tới hai đứa trẻ. Bà bếp nói: “Bà chủ à, xin bà đừng rầy nó quá, nó đã khổ quá rồi”. Tiếp theo lũ trẻ cũng năn nỉ Mẹ chúng đừng để tôi đi. Sau đó chúng xin lỗi bà rằng tại chúng chứ không phải tại tôi. Thế là chuyện rắc rối đó cũng đến quên đi cách mau chóng. Chủ tôi là một người đàn bà hết sức kiên nhẫn đối với tôi.

Hơn sáu tuần kể từ ngày tôi vào nhà này giúp việc, một buổi sáng kia tôi thức dậy đi xuống nhà bếp để sửa soạn bữa ăn sáng, lúc đó hơn 7 giờ rồi mà tôi không thấy Bếp đâu cả. Tôi gọi “Bếp đi đâu rồi, Bếp ơi!”. Không có tiếng trả lời. Tôi lại gọi nữa, có tiếng thật nhẹ nhàng của bà chủ “Đo-rinh (Doreen), Bếp đã chết khi hôm, trong lúc bà ngủ”. Tôi nhìn bà chủ không tin: “Chết à! Bếp không thể chết được, có lẽ bà lầm đó”. Tội nghiệp bà chủ, dù rất xúc động nhưng bà cũng cố gắng nói cho tôi hiểu đó là sự thật: “Bếp đã chết thật rồi, Đo-rinh (Doreen), chết trong giấc ngủ, một cái chết rất bình thản. Bây giờ, tôi xin em hãy giúp tôi bằng cách giữ im lặng, tôi đang đợi bác sĩ từng giây đây”. Tôi vẫn không im: “Tại sao còn gọi bác sĩ làm gì? Bếp đã chết mà!”. Tôi rất ngạc nhiên nhưng không hỏi thêm gì khác vì bà chủ đã quyết định không nói nữa, nhưng bà cũng khó lòng làm cho tôi im được. Mọi người, kể cả tôi, đi lại cách im lặng trong nhà. Gần một giờ sau, khi ở một mình trong nhà bếp, nước mắt tôi bắt đầu tuôn tràn. Tôi bắt đầu hiểu rằng người bạn thân yêu của tôi không bao giờ còn nói chuyện với tôi nữa. Mọi vật trong nhà bếp đều gợi cho tôi hình ảnh của Bếp. Bếp, Bếp thân yêu đã đi rồi. Mọi vật như thế nào khi vắng Bếp đây? Không ai thay thế Bếp được! Thật vậy, Bếp chẳng bao giờ có ai thay thế được. Còn tôi, như được nâng đỡ hơn, bà chủ quyết không mướn Bếp khác, vì bà thấy nỗi thống khổ của tới bây giờ thì bà chủ làm bếp, đôi khi có bà Hiếu (Hill) giúp, đôi khi thì tôi. Tôi thích nấu ăn và tôi học được rất nhiều nhờ sự kiên nhẫn của bà chủ. Bà dạy tôi làm bánh, làm cốc-tai (cocktail) trái cây và những món ăn thông thường khác.

Thường mỗi tuần một lần, chiều Thứ Ba tôi về Ớt-xơ-bơ-rít (Uxbridge). Tôi luôn luôn làm cho lũ trẻ con trong xóm thích thú, nhưng tôi chẳng có người bạn nào trạc tuổi tôi. Không có một tín hữu nào chịu làm bạn với tôi hay viết thư cho tôi cả. Đúng ra, tôi có thể được cứu vào lúc đó. Giống như bao thiếu nữ khác, tôi bắt đầu mơ có bạn trai và rồi chúng tôi sẽ cưới nhau. Thật tuyệt nếu có một người nào đó thật sự yêu tôi. Tôi mau lớn lắm về cả tinh thần lẫn thể xác. Tôi bắt đầu giao thiệp với các bạn đồng trang lứa. Tôi mong ước sẽ gặp được một hoàng tử đa tình như trong mộng; vì thế, tôi bắt đầu đi khiêu vũ thay vì đi xem chiếu bóng ở rạp. Chẳng bao lâu tôi quen được nhiều người và cũng không khó khăn gì để bắt bồ với bạn trai. Tôi được các chàng biết đến như một cô gái vui tính nhất. Các nhân viên ở trạm hỏa xa cũng đi khiêu vũ, họ cũng muốn kiếm bạn gái, còn tôi thì chẳng cần biết ất giáp gì về những anh chàng này, tôi chỉ cần một người bạn đồng hành thôi. Lần đầu tiên tôi nếm trải tình yêu từ-đầu-đến-chân. Cái nhìn của tôi thay đổi chỉ sau một đêm thôi. Mọi vật đều đẹp, ngay cả đến công việc nhà nữa. Thình lình, một Đo-rinh (Doreen) sáng chói nổi lên. Tất cả nỗi ưu phiền, buồn chán tan biến. Thế nhưng, cụm mây hồng của tôi chỉ dừng lại được ba tuần thôi, rồi bay mấy. Tôi trở lại với trái đất đầy cay đắng. Người yêu đẹp trai của tôi đã đính hôn rồi, tôi nghĩ chắc tôi sẽ chết mấy. Nhưng thời gian là một liều thuốc... Bây giờ tôi lại suy nghĩ sang một đề tài khác: “Tại sao người thì có quá nhiều tiền, trong lúc người khác thì lại quá túng thiếu?”. Câu hỏi lớn đó chiếm hữu cả đầu óc tôi. Thật là bất công! Sự cay đắng chất đầy trong trái tim trống rỗng của tôi cứ lớn dần, lớn dần. Tôi cho rằng khi nào mình làm ra thật nhiều tiền thì mình sẽ có hạnh phúc thật. Tôi quyết định sẽ đòi bà chủ tăng lương rồi để dành tiền đi Luân-đôn, là nơi tôi có thể kiếm được nhiều tiền hơn, sẽ có quần áo đẹp, sẽ có nhiều bạn...

Một hôm, bà chủ quyết định phải cho cô tớ gái của bà hết sợ cái máy điện thoại. Một cách kiên nhẫn và cẩn thận, bà chỉ dẫn tôi cách sử dụng điện thoại. Một lát sau, điện thoại reo, bà chủ gọi: “Đo-rinh (Doreen), nhắc điện thoại lên nghe y như tôi đã dạy em và nếu có bà Uyn-tơ (Winters) hỏi thì trả lời rằng ‘Bà chủ đi vắng rồi’, nghe chưa!”. Tôi làm đúng như lời bà dặn. Có tiếng đầu dây đằng kia: “Đây là bà Uyn-tơ (Winters)”. Tôi trả lời: “À thế hả, nhưng bà chủ có dặn nếu có bà Uyn-tơ (Winters) hỏi thì nói rằng bà chủ đi vắng...”. Khỏi cần nói cũng biết là bà chủ chẳng bao giờ nhờ tôi trả lời điện thoại nữa. Sau đó tôi mới hiểu mình thật quá đần độn, vì nếu tôi làm đúng với cách trả lời điện thoại thì chắc tôi đã được tăng lương rồi. Bây giờ thì không thể nói gì với bà chủ được nữa. Lại một lần nữa tôi tự chuốc lấy những khó khăn vào đời mình. Luân-đôn là nơi mong ước của tôi. Thành phố ấy chắc sẽ có dịp may cho những đứa con gái như tôi bằng cách này hay cách khác, Luân-đôn sẽ thay đổi được cuộc sống của tôi. Tôi khó lòng chờ đợi đến khi có được khá tiền, nên một ngày kia khi thấy mình đã đủ tiền cho cuộc hành trình, tôi thu dọn đồ đạc rằng rời nhà ra đi, mà không một lời từ biệt với bà chủ. Tôi đáp tàu từ Ớt-xơ-bơ-rít (Uxbrigde) với bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn trong lòng. Không một người thân thuộc, không một ai để ý đến. Phải buồn mà nói rằng ngày nay lịch sử đó cứ lập đi lập lại như thế. Có rất nhiều đứa con gái còn trong tuổi vị thành niên cô đơn, buồn chán, bỏ nhà đi đến thành phố, và rồi không biết sẽ có gì xảy ra cho họ khi không có một người này hướng dẫn cả.

Đường Phố Ở Pát-đinh-tơn (Paddington)

Đồ đạc mà tôi mang đến Pát-đinh-tơn (Paddington) (Luân-đôn) lần này nhiều hơn gấp bội lần ra đi ở Ớt-xơ-bơ-rít (Uxbridge) cách cách nay đã chín tháng, nhưng lần này thì không có sẵn công việc đợi tôi nữa. Lang thang trên hè phố, tôi suy nghĩ thật nhiều về những nan đề mới: Tối nay mình sẽ ngủ ở đâu, rồi sẽ làm gì...? Tôi cố gắng gát qua một bên, để rồi sẽ tính khi mình đi ăn. Thế nhưng, ăn xong mà tôi chẳng giải quyết được gì. Dĩ nhiên, không thể có chuyện quay về chốn cũ. Tôi đón rất nhiều người đi đường, hỏi thử nơi nào có quán trọ, nhưng chỉ có một người đàn bà đứng lại để giúp tôi thôi. Bà chỉ cho tôi một căn nhà rộng lớn có chỗ cho thuê, ở phía cuối phố. Tôi tới đó thuê một phòng, trả tiền trước thuê một tuần lễ. Đó là một căn phòng ẩm thấp, tối tăm, không có đồ đạc, tường ngăn bằng bìa cạt-tông cứng. So với căn phòng ấm áp, sáng sủa của tôi ở Cao-lê (Cowley) thì quả là một sự xuống dốc. Tôi ngồi trên cái giường èo ọp, nhìn chung quanh. Căn phòng cần phải được dọn dẹp sạch sẽ. Tôi đã từng được chỉ dẫn rất nhiều về việc này rồi mà. Tôi đang dồn dập với bao suy nghĩ hỗn độn thì nghe một chuỗi tiếng cười dài ở phòng bên cạnh. Tôi quyết định gõ cửa thử. _“Em ơi, vào đi!”. Tiếp theo lại là một tràng tiếng cười. Tôi nói: “Tôi cần một cây chổi và ít xà-phòng”. Mấy cô gái trong phòng nhìn tôi rồi lại nhìn nhau cười ngặt nghẽo. Một cô nói: “Đó, lấy đi!”. Tôi cảm ơn họ rồi lui về phòng. Họ tiễn chân tôi bằng những tiếng cười vô nghĩa. Am thanh sột soạt từ phòng tôi vang ra có lẽ đã cảm động được lòng một cô gái, tôi thấy nàng bưng tách trà bước vào phòng tôi. Căn phòng đã sạch sẽ và gọn gàng hơn.

_”Nè, bạn mới đến đây phải không, mình có thấy bồ đến”.

_“Tôi bỏ nhà chủ tôi đang giúp việc ở Cao-lê (Cowley) mới đến đây. Tôi tên là Đo-rinh (Doreen)”.

Chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu. Tôi kể cho Bờ-rên-đa (Brenda) _tên cô gái_ biết tất cả câu chuyện về đời sống tôi. Rồi các cô gái khác cũng bò qua. Bờ-rên-đa (Brenda) lớn hơn tôi mười tuổi. Nàng nói: “Tụi này là gái làng chơi, em biết không?”.

_“Gái làng chơi?”. Tôi bối rối chẳng hiểu chi cả.
_“Nghĩa là tụi này đi kiếm tiền vào ban đêm đó. Có nhiều tiền lắm. Đàn ông họ bỏ tiền ra như nước ấy”.
_“Tội gì mà giam mình làm việc cả ngày, hả em?”, một cô gái khác chen vào, “chúng ta hoàn toàn độc lập mà, chúng ta làm bất cứ cái gì chúng ta muốn”.
Tôi ngẩn ngơ nhìn họ. Họ có những quần áo đẹp, đắt tiền và đồ nữ trang nữa. Tôi ậm ờ: “Ừ, tôi cũng không muốn trở lại cuộc đời làm đầy tớ nữa”.
_“Đừng, đừng trở lại đó nữa, Đo-rinh (Doreen)! Bồ còn trẻ và đẹp gái nữa, bồ sẽ hái ra tiền rất nhiều khi đi với tụi này”.
_“Tôi sẽ suy nghĩ lại điều này”.

Cuối cùng, tôi tự kết luận: Chẳng phải mình đến đây để kiếm cho được nhiều tiền sao? Nếu đàn ông họ vung tiền ra mua vui chỉ trong giây lát thì có gì thiệt hại cho mình đâu? Và trông mấy cô gái này, bộ họ không sung sướng lắm đó sao?
Không phải tất cả những cô gái mãi dâm đều là những người nghèo như tôi đâu, cũng không phải vì tình duyên trắc trở hay bị gia đình hất hủi, nhưng tất cả họ đều có chung một yếu điểm, đó là Sự Cô Đơn. Tất cả đều muốn tìm hạnh phúc và họ coi tiền bạc như là chìa khóa. Đó là lý do để họ vịn vào và bước theo, chẳng bao giờ ý thức được rằng sau cái hào nhoáng của tiền bạc thì đầy dẫy những điều nguy hiểm. Đó cũng là lý do của tôi. Tôi cũng là đứa cô gái cô đơn ở lứa tuổi mười lăm. Tôi dấn thân vào thế giới của người lớn bằng cái nghề đê hèn nhất.

Những buổi kế tiếp, tôi theo Bờ-rên-đa (Brenda) ra đường phố ở Pát-đinh-tơn (Paddington). Tôi thấy Bờ-rên-đa (Brenda) thu hút đàn ông tới dễ dàng. Nàng đi dọc theo lộ, tay rung xâu chìa khóa kêu leng-keng, chẳng bao lâu một người đàn ông đi lại phía nàng. Ngôn từ trao đổi giữa họ rất đơn giản: “Hai Pao (pounds)”, tôi nghe Bờ-rên-đa (Brenda) nói, người đàn ông gật đầu, rồi họ khuất dạng. Còn về phần tôi, tôi cũng bắt đầu nhắm mắt đưa chân vào nghề. Một tuần lễ trôi qua, tôi được rất nhiều tiền, được nhiều đàn ông ái mộ, được nhiều quần áo đắt giá là những thứ tôi hằng mơ ước. Tôi cũng có nhiều bạn. Họ rất thích tôi, khen tôi là người vui tính nhất. Tôi cũng được nhiều người ở phố Pát-đinh-tơn (Paddington) biết đến, đôi lúc, khách bộ hành đi ngang cũng dừng chân lại nghe tôi nói chuyện. Tuy nhiên, cái hạnh phúc ấy bấy lâu nay tôi đi tìm kiếm cũng chỉ ở trong ảo tưởng thôi, nhưng tôi chẳng bao giờ tiết lộ cho ai biết điều ấy.

Một lần kia, tôi đối đầu với một ban truyền giảng lưu động. Trong lúc rảo bước trên con đường quen thuộc, tôi để ý thấy một buổi hội họp do một nhóm tín hữu của Chúa Cứu Thế Giê-xu tổ chức. Có một cô gái đang hát một bài ca. Giọng nàng thanh thoát như tiếng chim, tôi rất cảm động bởi lời ca này: “Cha tôi là Đấng giàu có với tất cả đất đai, nhà cửa. Ngài nắm sự giàu có của thế gian trong tay Ngài. Nào những kim cương, vàng bạc, châu báu và ngọc ngà. Cái rương của Ngài chất đầy châu báu. Tôi là con của một Vị Vua, Tôi là con của một Vị Vua Giê-xu, là Cứu Chúa tôi. Tôi là con của một Vị Vua Cao Cả nhất ”.

Gương mặt của cô ca sĩ rất vui vẻ khiến tôi phải chú ý. Thế rồi tôi bắt đầu suy nghĩ rằng nếu so sánh mình với cô gái này thì túi tiền của mình chẳng có nghĩa lý gì. Tôi mới thật là nghèo nàn. Trông nàng có vẻ rất bằng lòng với những gì nàng có. Nàng là con của một Vị Vua. “Ờ, mà ích lợi gì chớ? Thật quá trễ rồi. Họ là những người trong sạch, đẹp đẽ, còn tôi bây giờ là một gái mãi dâm chính cống”. Dù cố tìm mọi thú vui, nhưng tôi vẫn buồn vời vợi. Giống như nhiều người ngày nay, tôi nghĩ rằng Cơ-đốc giáo chỉ là một loại đạo lý tốt hơn là một điều cần yếu cho cuộc sống, là bí quyết của hạnh phúc. 

Mặc dầu vẫn lăn lộn với nghề mãi dâm nhưng tôi chẳng bao giờ quên được gương mặt cô gái hôm nọ. Sau đó tôi đổi tên mình, nhưng không phải dễ dàng để thay đổi một đời sống. Tôi tự gọi mình là Mi-sen-lơ (Michelle). Bờ-rên-đa (Brenda) và tôi ngày là bạn thân của nhau. Chúng tôi thường cùng nhau đi chơi đây đó. Để tiêu khiển, tôi thường tung bọt xà-phòng và thuốc nhuộm màu đỏ trên suối ở Quảng trường Tra-phan-ga (Trafalgar Square). Đôi lúc dừng lại ở một bờ tường, tôi cảm thấy mình phạm tội. Sự trống rỗng đè nặng trên tôi, ghì chặt lấy tôi, bao trùm lấy tôi. Thường thường, lúc đầu tôi cố xua đuổi những ý nghĩ phạm tội ra xa chừng nào tốt chừng đó. một ngày kia, Bờ-rên-đa (Brenda) và tôi đến Xô-ho (Soho) ở phía bắc Luân-đôn. Xô-ho (Soho) đối với tôi thật thú vị. Quang cảnh và âm thanh rất quyến rũ tôi. Chúng tôi thả bộ theo dọc đường phố mong tìm gặp một thú vui. Tới khúc quanh, tôi chợt để ý đến một bảng hiệu đề chữ “Lạc thú kiểu mẫu”. Tôi nhìn Bờ-rên-đa (Brenda):

_“Ê, tụi mình vô đó chơi một chút đi!”
_“Mình không dám, nhưng nếu bồ đi thì mình cùng đi”.
Tôi thích thú bước từng bậc thang lên lầu. Tôi gõ cửa. Hai người đàn ông ăn mặc lòe loẹt bước ra mở cửa đón chúng tôi. Họ nhìn tôi đăm đăm. Chúng tôi được dẫn đi giới thiệu đủ mọi thứ tiêu khiển ở khắp các phòng và cuối cùng là khiêu vũ. Nhạc bắt đầu mở. Một gã đàn ông hỏi tôi: “Có bao giờ cô khỏa thân chưa?’
_“Cả khối lần ấy chớ, nhưng còn tùy trường hợp nào nữa cơ!”.
_“Nghĩa là ở một nơi công cộng, giữa những tiếng nhạc đệm”.
_“Chưa!”.
_“Chúng tôi rất thích cô. Cô còn trẻ, cô nhảy khá, cô rất dày dặn với nghề. Đó là những gì đàn ông họ thích. Cô là gái mãi dâm phải không?”
_“Thì đã sao, nếu tôi là một gái mãi dâm?”.
_“Ồ, không có gì cả, nghĩa là sẽ dễ dàng hơn cho cô trong việc này nếu cô muốn, thế thôi!”.
_“Ồ, tôi nói thật, tụi này lên đây chơi một chút thôi, phải không Bờ-rên-đa (Brenda)?”
_“Ồ, đó là công việc may mắn nhất”, Bờ-rên-đa (Brenda) khuyên tôi, “mình cũng muốn làm công việc này từ lâu, nhưng bây giờ thì mình già rồi”.
_“Thế thì được”, tôi thích thú trả lời, “bao giờ thì tôi bắt đầu?”.
_“Tối nay! Nhưng cô còn phải có một cái tên hay nữa mới xứng hợp với cô. Tên cô là gì nhỉ?”
_“Đo-rinh (Doreen)”.
_ “Ồ, tên ấy nghe không hay tí nào!”
_ “Không, tên nó là Đe-rin Đai-ơ-na (Daring Diana)(*), được không?”, Bờ-rên-đa (Brenda) tiếp.
(*) nghĩa là Đai-ơ-na táo bạo .
_ “Được, tốt lắm! _Đe-rin Đai-ơ-na (Daring Diana)”

Nó giải thích cho tôi hiểu rằng tên tôi sẽ được quảng cáo trước tiệm như một ngôi sao sáng chói, hay gần là như thế. Thật là dễ dàng cũng như bước vào đường mãi dâm thôi. Vâng, nó rất đơn giản kèm theo một vài gợi cảm tội lỗi. Thật vậy, ma quỷ tự nó làm một con đường êm ái. Khi người nào đang trên đường xuống dốc, thì con đường đi xuống lại càng trơn láng hơn nữa. Ngay tối đó, thay vì đi ra đường để câu khách, tôi ngồi lại trong quán nhìn các cô gái khỏa thân khiêu vũ. Tôi quan sát từng nước đi nước bước của họ.Ồ! dễ quá mà, chẳng bao lâu tôi học được tất cả, làm thế nào càng khiêu gợi càng tốt. Và rồi, Đe-rin Đai-ơ-na (Daring Diana) trở nên một vũ nữ ăn khách nhất. Một bức ảnh khỏa thân của Đe-rin Đai-ơ-na (Daring Diana) được phóng lớn treo trước tiệm. Chúng tôi là những vũ nữ cố thuyết phục đàn ông vung tiền ra xài những thứ rượu dắt tiền. Riêng tôi thì tiền vô như nước. Tôi suy nghĩ: “Nghề mãi dâm quả thật tốt đẹp”. Tôi bỏ căn nhà ở Pát-đinh-tơn (Paddington) đến thuê một biệt thự rộng lớn tọa lạc ở Mai-phe (Myfair). Điều này chứng minh rằng bản thân tôi có thể đem đổi chác nhiều thứ cho cái ước muốn của tôi! Với tôi, Xô-ho (Soho) là nơi đẹp nhất trên đời này, nơi có đầy quần áo đẹp, nhiều đồ nữ trang và nhiều tiền. Tôi là chủ của một biệt thự. Tôi là một bà chủ của nhiều phương diện hơn là chỉ có một. Tôi nghĩ, mình là một người lên đến tuyệt đỉnh trần gian rồi. Thảm thương cho tôi thay đến khi tôi tuột xuống thì cũng mau chẳng kém gì lúc đi lên!

Con đường đến nhà giam

Tôi đang làm gì ở một nơi rác rến như thế này? Có phải tôi được sanh ra cho cái mục đích này chăng? Những câu hỏi này nổi dậy trong đầu tôi ngay cả những lúc tôi đang vui đùa trong tấm thân lõa lồ. Dù đón nhận những tiếng hoan hô, khen ngợi, tôi vẫn cảm thấy mình cô đơn hơn hết. Danh tiếng của Đe-rin Đai-ơ-na (Daring Diana) lúc này đồn vang khắp Xô-ho (Soho), thì bên trong tôi, cái thiên tính của tôi lại dần dần biến mấy. Xô-ho (Soho)với bao nhiêu quyến rũ của nó cũng không đem lại cho tôi một tí hạnh phúc nào mà tôi hằng mong tìm kiếm, mặc dầu bây giờ tôi có rất nhiều tiền. Tôi thấy mình chán ghét cuộc sống hơn bao giờ hết--. Sự cô đơn, buồn chán đang gậm nhấm bên trong con người tôi, nhưng không một ai biết hết, trừ Đấng Thượng Đế. Ngay cả đến những tiếng cười cũng có một khoảng trống lớn. _“Đai-ơ-na (Diana), mời bạn đến dự buổi đại hội đêm nay nhé”. Đó là thiệp mời của một người cùng nghề. Những buổi dạ hội lộ thiên do cô nàng tổ chức rất là hấp dẫn. Dĩ nhiên là mình sẽ đi chứ. Chắc có nhiều người đẹp ở đó. Tôi là người khách đầu tiên đến dự nhà bạn tôi hôm đó. Tôi lựa và xếp loại các đĩa nhạc. Bài hát đầu tiên với giọng của một nam ca sĩ:
“Tôi đã sống một cuộc sống trong thế gian tội lỗi này. Tôi đã làm những việc cấm đoán mà tôi không nên làm. Tôi hỏi người ăn mày rằng nơi đâu có chỗ trọ, nơi đâu tôi có thể tìm ra được hạnh phúc và tình yêu thật? Qua cầu không có gì buồn, mặt trời sẽ chiếu rạng bên sông. Qua cầu không có gì đau, và bạn sẽ chẳng bao giờ thấy buồn chán nữa ”.

Trong lúc ngồi lắng nghe điệu nhạc này, một cảm giác hối hận tràn đầy lòng tôi. Tôi tự hỏi: “Nơi đâu là cái cầu? Nơi đâu là con sông? ”. Tôi ước ao tìm ra hạnh phúc và tình yêu thật. Bằng cách này hay cách khác, nơi này hay nơi khác, tôi đã đánh mất con đường đưa tôi đến hạnh phúc rồi. Tuy nhiên, khi buổi dạ tiệc bắt đầu, tôi lao ngay vào những thú vui để mong tìm được nguồn sống. Ngày tháng trôi qua, tôi càng thường xuyên trở nên khó chịu hơn.

Một ngày kia tại phòng trà, khi tôi vừa ực xong một ly rượu, thì một gã đàn ông xích chiếc ghế cao đến ngồi cạnh tôi. Trông hắn có vẻ quen lắm. Hắn gợi chuyện: “Hôm nay coi bộ cô uống nhiều đấy!”.

_“Vâng, đúng vậy”.
_“Thử nếm một điếu này xem sao!”. Hắn đưa tôi một điếu thuốc quấn tròn.
_“Không, cảm ơn. Tôi thích hút thuốc của tôi hơn”.
_“Cô thấy thỏa mãn khi hút thuốc đó phải không? Cô sẽ thích thú hơn với thứ này. Dĩ nhiên, nó có phần mắc hơn chút ít, nhưng cô sẽ thấy, tiền nào của nấy mà! Tại sao cô không thử một điếu?”
Nghe lời hắn, tôi châm một điếu. Hắn cẩn thận quan sát tôi. Một chút thú vị len vào tâm khảm tôi một phút sau đó. Tôi hỏi hắn:
_“Đây là loại gì vậy?”
_ “Đó chỉ là một loại thuốc làm cho ta thích thú hơn, thế thôi”.
_“Tôi có thể mua một ít được không?”
_“Dĩ nhiên là có rất nhiều. Cô muốn mua bao nhiêu tùy ý, và ở chỗ gốc của nó, người ta còn bán nhiều hơn nữa”.
Tôi chẳng cần biết chỗ gốc của nó để làm gì miễn sao nó làm tôi thú vị hơn là được rồi. Tôi lấy sáu điếu. Gã đàn ông mỉm cười rồi bỏ đi. Nó là một thằng điếm, nó đã trù tính trước mọi điều rồi. Hôm sau nó lại đến.
_“Tôi đem cho cô một vài loại khác hơn nè, được không cô Đai-ơ-na (Diana)?”
Tôi thật sự ưa thích loại thuốc này nên mặc dầu nó có vẻ khó hiểu, tôi vẫn nghe lời mời của nó mà theo đến một tiệm sách nghèo nàn ở Xô-ho (Soho). Ra dấu cho người đàn ông ở trong tiệm sách, gã dẫn tôi đi xuống một căn phòng ở phía sau.
_“Cái gì mà bí mật vậy?”
_“À, chúng tôi không muốn cho một ai thấy. Đừng nói với ai biết cô đã làm gì nghe, Diana”.
_“Tôi xin hứa”
_“Nó chỉ đau chút ít ở cánh tay thôi, không có gì lo ngại cả!”.

_“Ừ được, làm lẹ lên!”, tôi nói trong khi xăn tay áo lên cho hắn chích. Tôi quay mặt đi trong lúc hắn cột cánh tay tôi bằng một sợi dây thun rồi chích vào gân máu tôi một mũi bạch phiến. Trong vòng hai giây đồng hồ, tôi thấy mình lên mây xanh. Tôi cảm thấy như mình ở chỗ cao nhất trên thế gian này. Tôi cảm thấy mình làm chủ được tất cả sung sướng và hạnh phúc. Tôi đang ở trên chín từng mây. Hắn đắc ý: “Cái này làm cho cô sung sướng phải không?”. Tôi mỉm cười, trả lời cách dại dột: “Vâng”. Cuối cùng, tôi nghĩ mình đã có được thứ hạnh phúc mà mình hằng tìm kiếm rồi. Tôi hoàn toàn mê muội chẳng biết điều gì sẽ xảy ra cho tôi sau này. Chẳng bao lâu sau khi chích thì niềm hạnh phúc ấy lại chấp cánh bay xa và nỗi buồn chán đau khổ lại trở về thế chỗ của nó. tôi lại càng tệ hơn bao giờ hết. Tôi cảm thấy mình bị kéo đến chỗ tối tăm sâu thẳm không đáy. Tôi hoàn toàn không hiểu gì cả. Tại sao vậy? Trước đây khoảnh khắc mình cảm thấy mình hạnh phúc mà. Cái gì đã xảy ra cho mình vậy? Tôi bắt đầu khóc nức nở không thể ngăn chận được như thể tôi đang điên và sắp chết đến nơi rồi. Tôi lê bước cách nặng nhọc đến phòng trà. Các cô gái đều nhìn tôi khi tôi loạng choạng bước vào phòng thay quần áo. Họ đã biết chuyện gì xảy ra cho tôi rồi, nhưng chẳng có ai ngăn cản tôi đừng vào con đường nguy hiểm ấy. Họ lại còn đi tìm gã đàn ông điếm đàng đó cho hắn biết sự tình của tôi. Thấy tôi như bị loạn thần kinh, nằm run rẩy trên sàn nhà, gã lạnh lùng nói: “Cô sẽ mạnh lại, chỉ cần chích thêm nữa và cần kiếm ra cho nhiều tiền là được”. Một khi gã chắc chắn rằng tôi có đủ tiền để trả thì gã mới chịu chích mũi khác cho tôi. Tôi như con cá đã cắn câu của gã rồi. Tôi chẳng biết mình đang làm gì nữa, càng ngày tôi càng nghiện nặng. Điều này cũng thường xảy ra ở nhiều nơi. Các thanh niên cũng sớm bị chôn vùi nơi nấm mồ. Tất cả chỉ vì muốn nếm cái thú vị của bạch phiến. Một số người dại dột như tôi, chẳng biết gì cả, chẳng có ai dạy bảo, một số khác thì biết rõ nhưng không thèm để ý đến những lời cảnh cáo cho đến khi họ nhận ra lời cảnh cáo ấy là đúng thì đã quá trễ. Phần tôi lúc ấy, tôi nghĩ rằng đã quá trễ cho tôi rồi. Càng ngày gã càng lên giá tiền thuốc, gã bán cho tôi dụng cụ để tự chích lấy. Tôi xuống cân nhanh chóng và ngôi sao Đe-rin Đai-ơ-na (Daring Diana) bị lu mờ dần. Mái tóc dài óng mượt của tôi bây giờ xơ xác. Da dẻ tôi bắt đầu nhăn nheo. Cái vẻ kiều diễm trên khuôn mặt không còn nữa. Tôi thường nằm trên giường với tim gan đau nhói sau mọi lần chích.

Một ngày kia, người chủ phòng trà gửi cho tôi lá thư: “Cô hãy tự xét lấy, sao cô không đi khỏi nơi đây cho sớm? ”. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Tôi tự biết rõ rằng bây giờ tôi là một Đai-ơ-na (Diana) chết lịm thay vì là Đe-rin Đai-ơ-na (Daring Diana), một Đai-ơ-na (Diana) táo bạo. Tôi vẫn cố gắng xuất hiện thêm vài lần sau khi bị đuổi hẳn. Thất nghiệp, lại phải đương đầu với nan đề là nhu cầu ma túy mỗi ngày. Tôi lại trở về với nghề mãi dâm. Đây không còn là một việc làm dễ dàng nữa vì bây giờ tôi chỉ nmhư một người chết còn ấm hơi thôi. Đó là một điều rất bi đát, nhưng tôi biết chọn điều nào bây giờ? Chích hay chết? Tôi phải ra đi ăn sương mỗi đêm tại đường phố, dù muốn hay không vẫn phải làm. Thân thể tôi đã tiều tụy nên tôi rất yếu và bệnh hoạn. Tất cả bạn bè đều xa lánh tôi, chẳng ai thèm thí cho tôi một đồng nào, cũng chẳng ai bằng lòng cho tôi mượn vì họ biết rõ rằng tôi chẳng bao giờ có thể trả lại cho họ được.

Các bạn thân mến, đâu phải chỉ có mình tôi lâm vào hoàn cảnh như thế này, còn biết bao nhiêu người giống như tôi, đơn độc trên một chiếc thuyền lênh đênh giữa biển với những phong ba, bão táp, với những đợt sóng lớn có thể tiêu diệt họ bất cứ lúc nào. Tôi im lặng bước chầm chậm trên con đường bẩn thỉu dẫn vào bóng tối. Mời bạn theo tôi, xin cho tôi dắt bạn ra phía sau sân khấu để bạn liếc nhìn vào cái thế giới tối tăm này.

Hôm đó, một buổi tối lạnh lẽo, vài ngọn đèn đường không đủ dẹp đi vẻ ảm đạm của thành phố. Một ít khách bộ hành qua lại. Cái lạnh giá đã khiến người ta ngại ra khỏi nhà. Tôi dừng lại, kéo chiếc áo mỏng cho đỡ rét. Cái áo mỏng manh không đủ đem luôn cho tôi một tí ấm áp nào cho cơ thể gầy đét đang run rẩy. Mới mấy hôm trước, tôi đã đem quần áo đi bán hết, còn vài bộ khác cũng bán để trả tiền thuê nhà và để đổi một vài bữa ăn. Phía trước tôi có một bóng người, tôi cố gắng nhìn với cặp mắt lờ đờ. Người đàn ông vừa lách mình qua, tôi ngữa tay xin ông bố thí. Người bộ hành từ tâm đã cho tôi vài si-linh. Tôi ước ao làm sao có thể làm lại cuộc đời. Bây giờ tôi là hiện thân của đau khổ, buồn chán và thất vọng. Đây là một hình ảnh thật xúc động phải không bạn? Nhưng đó là điều thật sự xảy ra. Những con người thảm thương đó có thể là con gái quý vị, con trai quý vị, em cháu quý vị hay là chính quý vị đấy. Tôi trở nên yếu đuối, bạc nhược. Tôi xoay qua nghề ăn cắp. Khi còn nhỏ ở Ớt-xơ-bơ-rít (Uxbridge) thì sự việc là “ăn cắp hay chết đói”, còn bây giờ là “ma túy hay chết”, tôi không còn sự lựa chọn nào khác nữa. An cắp đồ trong tiệm cũng không phải là một sự dễ dàng cho tôi để mang những món đó ra ngoài. Tôi đã suy nhược cả tinh thần lẫn thể xác, cái phản ứng lanh lẹ bẩm sinh tôi vốn có bây giờ cũng hết rồi. Mỗi lần vào một tiệm buôn thì tay chân tôi bắt đầu run rẩy, trong lòng đầy nỗi lo sợ. Còn một điều khó khăn nữa, đó là lúc bán những thứ mình đã ăn cắp. Phải bán giá rất rẻ người ta mới mua. Tôi cũng cảm thấy phạm tội khi ăn cắp như vậy. Kiếm được một ít tiền theo cách này, tôi đem đi chích. Và rồi, ngày này qua ngày khác, tôi đã trở nên một kẻ ăn cắp rất rành nghề. 

Một sáng kia, tôi rời khỏi tiệm kim hoàn với một món nữ trang trong xách, tôi ung dung đi ra mà không biết rằng có người đang theo mình. Thình lình, một người nắm tay tôi lôi tôi lại, “Xin cô vui lòng theo tôi, tôi chắc rằng cô đang giữ trong xách một món hàng không phải của cô”. Ông ta không một lời thô lỗ với tôi. Thật vậy, trông ông như tiềm ẩn một chút tội nghiệp cho người đàn bà đáng thương này. Tôi yên lặng theo ông trở lại tiệm và họ đưa tôi đến phòng an ninh. Viên an ninh lục trong xách của tôi: ngoài một sợi dây chuyền, tôi còn có hai điếu á phiện. Tôi đang đối phó với một nan đề rất lớn. Người an ninh có vẻ hài lòng với những gì ông ta thu lượm được. Ông ấy bảo tôi đi về rồi mai lại đến tòa. Ông còn nhắn nhủ thêm rằng mai phải đến đúng giờ, đừng có mà chạy trốn đi đâu đấy. Tôi chưa bao giờ dự một phiên tòa, tôi khó lòng ngủ được. Đêm đó, để giải khuây, tôi hút không biết bao nhiêu điếu thuốc. Tôi suy nghĩ xem cách nào để đối phó với ngày mai. Dĩ nhiên không thể chạy trốn, vì trước sau thì người ta cũng tìm ra. 

Buổi sáng đầy ảm đạm. Tôi chậm chạp tới tòa. Vành móng ngựa trông thật tẻ lạnh và trống rỗng làm sao! Có một người đàn ông chỉ cho tôi cách biện hộ để giảm tội, nhưng tới lúc tòa xử thì không thấy ông ta xuất hiện nữa. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy chẳng có ai đến dự phiên tòa xử án của tôi cả. Điều này có nghĩa là chẳng ai thèm để ý đến con nhỏ này. 

Trước vành móng ngựa, tôi đối diện với một hàng người đang ngồi ngồi nghiêm mghị trên ghế, nét mặt lạnh như tảng đá băng trong hang. Một người đàn ông đứng lên đọc bản cáo trạng của tôi. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cơ quan an ninh biết rất nhiều về tôi hơn là những gì tôi có thể nhớ được khi hầu tòa.

_“Cô có biện hộ gì cho bản cáo trạng của cô không?”.

_“Dạ vâng, tôi chấp nhận!”, tôi đáp thật nhỏ. Một phút yên lặng rồi hai phút... Tôi nghe rõ tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường.

_“Cô đã công nhận rằng cô có tội. Vậy, cô chấp nhận ba tháng tù ở phải không?”. Tai tôi lùng bùng. Tù! Am thanh nghe như một lời nơi âm phủ. _“ Chỉ có con đường này thôi cô ơi!”. Giọng của một người đàn ông vang lên bên tai tôi như có một chút xót thương đối với kẻ cùng đường. Một chiếc xe bít bùng màu đen, đang đợi tôi ở đằng kia, tôi bước lên xe, tiếng cánh cửa đóng sầm lại vang lên một âm thanh chát chúa. Trong xe, một viên an ninh ngồi bên cạnh tôi, không một lời đối thoại nào giữa chúng tôi. Tôi nghĩ miên man: Ba tháng tù ở mà không một người nào biết đến cả! Bây giờ, mỗi lần nhìn lại những gì xảy ra cho tôi, tôi tin rằng Đức Chúa Trời đã cho phép tôi vào tù vì nếu ma túy không giết tôi thì chắc tôi cũng đã kết liễu cuộc đời mình dưới dòng sng Thêm (Thames) rồi. Hiện giờ tôi đầy lòng tin cậy nơi Chúa rằng Ngài đã giữ tôi thoát khỏi cái chết, tuy nhiên, lúc đó tôi cứ nghĩ rằng chẳng có ai lo nghĩ đến tôi, không một ai cả. Rồi chiếc xe từ từ tiến vào nhà giam Hô-lô-uê (Holloway). Tôi run rẩy bước xuống xe và yên lặng theo vị sĩ quan cai tù. Mọi vật như không có hình thể nào trước mắt tôi, tôi được đưa đến vị bác sĩ trong nhà giam. Bác sĩ khám tôi rất cẩn thận. Ông chú ý nhất vào đôi mắt và cánh tay tôi. _“Hừm... Cô đang bị nghiện phải không?”
 _“Vâng, đúng vậy”, tôi tự nghĩ không biết tại sao bác sĩ lại hỏi tôi câu này, vì ông đã có cả chồng hồ sơ về tôi bên cạnh rồi. _“Lát nữa cô sẽ được đưa vào nhà thương”. 
Ông nói vài lời với vị sĩ quan. Xong, ông ấy dẫn tôi đến nhà thương. Tôi cảm thấy dường như có một cặp mắt vô hình đang theo dõi từng bước chân của tôi. Vị cai tù dẫn tôi vào một căn phòng rồi khóa cửa lại. Tôi đứng yên trên thềm với bao nỗi chán chường. Tôi hoàn toàn cô đơn. Tôi nghĩ: “Họ cho mình là điên hay là gì đây mới nhốt mình trong căn phòng như thế này”. Họ canh chừng tôi qua một lỗ hổng ở cửa lớn. Tôi ít ngủ được. Họ cai nghiện cho tôi. Nhìn qua lỗ hổng, tôi thấy một người đi lại. Tôi nghĩ: Đến để coi thử mình còn sống không chứ gì! Tôi kêu la với Chúa để tôi được chết, xin để tôi chết, xin để tôi chết... Chúa chẳng đáp lời tôi. Tôi tự hỏi phải chăng có một Đấng vô hình nào có thể nghe lời cầu nguyện của tôi qua bức tường dày này chăng? Trong vòng ba ngày cai nghiện, đến ngày thứ tư họ đem đồ ăn đến cho tôi trên một cái mâm bằng nhựa, tôi hất tung cả mâm đồ ăn vào tường. Lúc định thần trở lại, tôi thấy căn phòng của tôi chẳng khác gì cái chuồng heo. Tôi la lớn: “Ôi Chúa ơi! Con đã điên rồ như thế này à! Ma túy! Tiền bạc, áo quần! Và đồ nữ trang! Chúng là những cái quái gì vậy?”. Đó là một kinh nghiệm hết sức hãi hùng. Tôi không nghĩ rằng tôi còn có thể sống được nữa!

Sau khi được cai nghiện, tôi được đem ra khỏi cái chuồng heo của tôi. Tôi hứa rằng tôi sẽ chẳng bao giờ đụng đến ma túy nữa, cũng chẳng ai sẽ thấy tôi khỏa thân nơi các phòng trà nữa. Tôi sẽ sống một cuộc sống lương thiện sau khi ra khỏi nhà tù vì tôi đã học được một bài học thích đáng rồi. Ta phải trở nên người tốt, ta phải trở nên người tốt, bước chân của tôi dường như nói như vậy. “Tôi ước gì tôi còn được trẻ như cô’, một nữ tù nhân nói với tôi như thế. Hình như gần hết cuộc đời của bà là ở trong tù. Bà tiếp: “Cô có thể bắt đầu một cuộc sống mới được, nhưng đã quá trễ đối với tôi”. Một cuộc sống mới. Vâng, tôi sẽ bắt đầu khi nào tôi ra khỏi tù. Ngồi trong tù, tôi cũng vơi đi một ít đắng cay vì nhìn chung quanh còn có nhiều người đáng thương hơn tôi nữa. Hầu hết những tù nhân đều là những người nghiện rượu, ma túy, ăn cắp, mãi dâm. Dù là gì đi nữa, họ đều có chung một căn bệnh, đó là Cô Đơn. Tôi cố gắng vận dụng cái khả năng khôi hài bẩm sinh của tôi để giúp họ vui mặc dầu tôi cũng buồn chán như họ. Họ gọi tôi là “Đo-rinh (Doreen) vui nhộn”. Điều này nhắc tôi nhớ lại những ngày xưa lúc còn ở Ớt-xơ-bơ-rít (Uxbridge), nơi tôi là “sếp” của lũ trẻ ngây ngô. Lạ quá, lịch sử chính nó lại tái diễn. Tôi được phép lấy những vật sở hữu khi vào tù, tôi không có nhiều đồ vì tôi đã tiêu tất cả vào ma túy. Quyển Thánh Ca là một trong những sở hữu của tôi. Trong nhà giam, trước khi đèn tắt, tôi có thể đọc những lời ca quen thuộc: “Giê-xu là người chăn hiền lành, Ngài nghe tôi, phước cho chiên của Ngài đêm nay. Qua sự tối tăm, Ngài gần tôi, giữ tôi bình an cho đến sáng mai ”. Tôi tự hỏi: “Cái gì sẽ xảy ra cho cô giáo trường Chúa nhật nhỉ, nếu cô biết tôi đang ở tù?”.

Ba tháng tù ở rồi cũng qua. Một số người trong tù rất quyến luyến tôi, nên họ gọi lớn ra: “Đừng trở vào đây nữa nhé”. Tôi bước từng bước ngập ngừng, âm thanh theo bước chân như nhắc nhở tôi: “Đừng trở lại nữa, đừng trở lại nữa”. Ra ngoài, nhìn lại bức tường xám của nhà giam, tôi giơ tay thề rằng: Chẳng bao giờ tôi trở lại đây nữa. Tôi đang bước đi để tìm cho mình một cuộc sống mới. Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng chẳng tìm ra được nó! Lại một lần nữa, bên ngoài nhà giam tôi chẳng biết mình đi đâu hay là làm gì. Ý định tốt đẹp bay mất khi tôi đến một ngã tư đường. Bây giờ tôi biết rằng một người không thể đi được một mình khi không có bàn tay của Chúa hướng dẫn và lúc bấy giờ thì tôi chưa có Đấng Cứu Thế giúp đỡ. Cuối cùng tôi lại đi tìm các bạn tôi ở Xô-ho (Soho), rồi chứng nào tật nấy, chẳng bao lâu Daring Diana lại xuất hiện trên sân khấu. Tệ hơn nữa là tôi nghiện ma túy trở lại. Tôi tự nhủ rằng tôi sẽ làm chủ trong mọi hành động của tôi, nhưng thật giống như chơi với lửa. Trong thời gian này Ban Truyền Giảng Lưu Hành có đến Xô-ho Soho. Họ có những thanh niên đi ra làm chứng. Dường như bất cứ nơi nào tôi đi, tôi cũng thấy có mặt họ ở đó. Trông họ rất thành thật và tử tế, họ nói về tình yêu của Thượng Đế cho mọi người. Tôi có dừng lại để nghe, nhưng tôi há không nghe những điều này ở lớp trường Chúa nhật rồi sao? Dường như vấn đề cũ lại săn đuổi tôi. Một mặt thì tôi giận nó, một mặt tôi sợ nó. Họ có một cái gì bí mật mà tôi hằng tìm kiếm, trông họ rất vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn... Nhưng mà không phải cho tôi, tôi suy nghĩ như vậy. -Đã quá trễ cho tôi rồi. Đôi lúc sau khi công việc xong, tôi ngồi lại đọc quyển Thánh Ca: “Xin nói cho tôi vài câu chuyện về Giê-xu viết trong lòng tôi từng giờ này”. Tôi gấp sách lại -Đúng cho họ thôi vì họ chẳng có cuộc sống như tôi. Điều có thật này dường như không thể tin được, rằng một vũ nữ khỏa thân như tôi mà đọc Thánh Ca vào buổi sáng sớm. Nhưng Đức Chúa Trời ở nơi bí mật của Ngài. Một tối kia, tôi cùng một người bạn đi đến một buổi giảng Tin lành, chúng tôi ngồi phía sau cùng đùa cợt với nhau. Một nhân viên phụ trách mời chúng tôi ngồi lên phía trước trong lúc hội chúng hát bài:

“Dù bạn đang đứng nơi bóng tối, bạn cũng tìm được Giê-xu. Chính Ngài là Đấng săn sóc và hiểu bạn. Dù bạn đứng ở nơi nào, bạn cũng tìm được Giê-xu và bạn sẽ nhận biết Ngài bởi bàn tay có dấu đinh của Ngài ”.

Chúng tôi thường hát bài này ở Trường Chúa nhật. Tưởng gì mới, chứ cái này quá thường, tôi cố gắng xua đuổi tất cả ra ngoài trí óc của tôi. Bạn tôi và tôi ngồi cười với nhau nhưng cuối cùng, tôi cảm thấy như đối mặt với Thượng Đế. Một buổi sáng, tôi gặp một cô gái trong Ban Truyền Giảng, tôi nói: _“Ồ, đừng, xin đừng nói với tôi về điều ấy nữa. Con người của tôi không phải để dành cho tôn giáo của mấy người”. Cô gái hiền từ đáp: _“Chúa Giê-xu yêu bạn và Ngài chết thế cho bạn”. Tôi quát: -“Hãy để tôi yên, cút đi ngay, những lời cô nói chỉ như nước đổ đầu vịt thôi”. Cô gái tiếp: -“Chính cô là kẻ hư mất”. Tôi biết rằng cô gái này nói rất đúng. Chính tôi là kẻ hư mất trong bóng tối của riêng tôi, hư mất trong sự cô đơn của tôi.

Việc này xảy ra gần hai năm trước khi Cứu Chúa Giê-xu đã vớt tôi lên khỏi vũng bùn và để tôi thuộc riêng về Ngài. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy đó là một dịp tiện quý báu cho tôi mà tôi đã bỏ qua, tôi đã đánh mất.

Vương quốc Sa-tan

Hai cô gái đang đứng kề nhau trong bóng tối của quán rượu. Họ đang thì thầm với nhau những gì vậy? Cái gì đã khiến hai cô gái này khác hẳn mọi người? Tôi đã để ý họ từ lâu, lúc nào họ cũng gần nhau. Thật vậy, tôi chẳng thấy hai cô này rời nhau bao giờ. Không một người nào có thể biết tí gì về họ. Vâng, có một sự khác biệt giữa hai cô gái đó với mọi người. Rất huyền bí, rất kỳ lạ. Sẵn tính tò mò, tôi kiên trì theo dõi và quyết tìm cho ra nguyên cớ. Nhờ ánh sáng lờ mò trong quán nên rất dễ bám theo họ để nghe thử họ nói chuyện gì, tôi đứng tựa cửa phòng thay quần áo, cố gắng lắng nghe hai cô gái thì thầm. Mặc dầu không nghe được hết câu chuyện của họ, tôi cũng biết họ đang nói với nhau về một đền thờ nào đó của Sa-tan. Tôi nín thở nhưng không nghe được giò nữa. Tôi bước ra khỏi bóng tối, rồi nói lớn: “Nhà thờ Sa-tan là gì hả?”. Tụi tao không thể nói được với mầy về điều đó, đó là chuyện bí mật”. Tôi mỉm cười: “Nhưng tao muốn biết thử”. Hai cô gái đoán rằng tôi đã nghe được cả câu chuyện, họ lo lắng nhìn nhau, một cô nói: “Nếu mầy đừng nói với ai về điều này...”. Tôi đồng ý sẽ không hé môi với một ai. Họ nói: “Tụi tao là môn đệ của Sa-tan và thờ phượng Sa-tan ở nhà thờ”. Tôi tiếp “Cho tao đi với được không?”. Một lần nữa họ buộc tôi giữ bí mật rồi mắt đồng ý.

_“Sáu giờ chiều mai, mày đợi ở góc đường quán này, tụi tao sẽ đến dẫn đi”. Chiều hôm sau, tôi ra chỗ hẹn, hồi hộp chờ đợi. Đúng sáu giờ, một chiếc xe màu đen lù lù chạy đến với hai cô gái quen thuộc ngồi phía sau. Người tài xế ra dấu cho tôi bước lên “Xin vui lòng để chúng tôi bịt mắt cô lại vì lần đầu tiên người nào đi với chúng tôi cũng phải làm thế để không ai biết được nhà thờ Sa-tan ở đâu, vậy thôi!”. Tôi chẳng thấy khó khăn gì, bịt mắt ngồi trên xe còn thấy vui vui và hồi hộp nữa. Tim tôi đập mạnh, đường không xa lắm, chẳng bao lâu chúng tôi đến nơi. Xe dừng trước nhà thờ, họ mở băng bịt mắt cho tôi. Những gì tôi thấy hôm đó thật là kỳ bí. Nơi được gọi là nhà thờ ở phía sau một tòa nhà rộng lớn. Hôm đó có hơn năm trăm môn đệ Sa-tan đến họp. Cái bục cao phía trước được lót gạch đen. Trên ngai, một người ngồi đó vẻ mặt rất dữ tợn, hắn mặc quần áo có những vằn vện hình con rắn, con rồng và ngọn lửa. Chung quanh hắn có khoảng mười ba người khác đứng chầu cũng mặc toàn đồ đen. Cái phản ứng đầu tiên của tôi khi thấy những điều mới lạ từng là tôi cười cợt; những người chung quanh tôi giải thích để tôi nén cười lại. Tôi đang tự đưa mình vào chỗ nguy hiểm, những khuôn mặt quanh tôi đều hiện rõ những gì thuộc vương quốc Sa-tan. Cái phản ứng tiếp theo của tôi là cố chạy xa chỗ đó chừng nào tốt chừng ấy, nhưng dường như có một quyền lực nào đó mạnh hơn tôi, giữ tôi lại chỗ mà tôi đang đứng.

Buổi lễ bắt đầu. Những người đứng chầu quanh ngai hát, âm thanh lớn dần, lớn dần trong lúc Thủ lãnh bước ra khỏi ngai, đi xuống phía cử tọa. Hai trong mười ba người đứng chầu cất hai cái chĩa ba lên và tất cả cử tọa quỳ xuống để thờ lạy Thủ lãnh. Dĩ nhiên, chỉ có một mình tôi đang đứng tại vị. _“Đó là vị Thủ lãnh của chúng ta đấy”, một trong hai cô đi với tôi giải thích. Tôi đứng ngẩn ra đó nhìn mọi sự. _“Người ấy là vị có quyền tối cao, ông là đại diện cho Sa-tan trên đất đó”, một cô gái khác giải thích, giọng run rẩy. Tôi bắt đầu hiểu chút ít rằng tôi đang bước vào thế giới của Sa-tan trên trần gian này. Một cô gái khác nói: “Hãy chú ý lắng nghe, tôi sẽ giải thích từng chi tiết trong buổi lễ”. Tất cả hội chúng đang cầu với Thủ lãnh Sa-tan. Mắt mọi người đều ngó chăm hắn. Các kẻ phục vụ đưa cho hắn hôn một cái bình với một con dao lấy ở trên bàn thờ. Thủ lãnh đang cúng cái nhà thờ và cái bình cho Luy-xi-phe (Lucifer). Thình lình ánh sáng vụt tắt và những ngọn đuốc được thắp lên. Lần đầu tiên tôi thấy hình ảnh của Sa-tan bắt đầu xuất hiện khắp phòng, chúng sinh hoạt trong lúc buổi lễ tiếp tục. Một con gà trống màu trắng được đem tới và người ta cắt cổ gà ngay chỗ bậc cấp đi lên bàn thờ, họ rảy huyết gà mọi nơi, sau đó, họ để con gà lên bàn thờ dâng cho Sa-tan, còn hội chúng thì cứ hát và cầu nguyện. Tất cả mọi việc họ làm đều nhơn danh Quỷ Vương Sa-tan (Satan Diables). Tôi rất ngạc nhiên khi thấy Thủ lãnh của môn đệ Sa-tan nhìn thẳng đến tôi. Dường như mắt hắn nhìn thấu được tâm can tôi. Tôi rùng mình. Tất cả các nghi thức thờ phượng đó đã xong, khoảng hai tiếng đồng hồ. Thủ lãnh xuất hiện đàng sau căn phòng, hắn tiến lại phía tôi và hỏi: 

_“Cô muốn gia nhập với chúng tôi không?”
_“Dạ, tôi chưa biết”, tôi hơi sờ sợ.
_“Chẳng có gì đáng sợ cả”, hắn mỉm cười. Tôi khó lòng từ chối được cái nhìn quyến rũ của hắn. “Tôi hy vọng sẽ gặp cô trong những buổi họp kế tiếp”, hắn nói rồi biến mất.
_“Nè, Đo-rinh (Doreen), ông ta để ý mày đó!”

_“Ừ, tao không biết tại sao vậy?”. Tôi lùng bùng lỗ tai. Hắn tìm ra tôi trong hơn năm trăm người. Tại sao/ sau này thì tôi hiểu tại sao rồi: Vì trong vương quốc Sa-tan, dẫn dụ môn đệ mới là một việc rất quan trọng, họ tích cực làm việc đó còn hơn các tín hữu Cơ-đốc nữa. Nhà thờ Sa-tan được chuyển chỗ rất nhiều lần nếu chỗ cũ bị tiết lộ. Bí mật là điều tối quan trọng. Tôi đã phân vân rằng có nên trở lại nhà thờ Sa-tan nữa hay không. Tuy nhiên, có một quyền lực nào tôi không giải thích được đã lôi kéo tôi lại đến dự buổi lễ kế tiếp. Tôi cũng bị bịt mắt như lần trước nên không biết nhà thờ Sa-tan ở nơi nào. Lần này tôi dự suốt buổi lễ mà không thấy sợ hãi nữa. Tôi càng được khuyến khích hơn khi Thủ lãnh đến gặp tôi và mời tôi dùng bữa với hắn. Tôi hơi lúng túng nhưng hắn làm tôi dễ chịu ngay. Chẳng bao lâu tôi kể hắn nghe tất cả câu chuyện về cuộc đời tôi, hắn chẳng chút ngạc nhiên khi tôi cho hắn biết rằng tôi là một con đĩ, rằng tôi nghiện ma túy, ăn cắp... Thật vậy, dường như hắn biết cả về tôi. Hắn nói: “Hầu hết nhân loại thuộc về Sa-tan, từ người sang đến người hèn, từ chủ nhà băng đến người bán hàng, giáo sư, y tá, gái mãi dâm, kẻ nghiện thuốc... Tất cả! chẳng có gì khác biệt, ngăn cách giữa chúng ta. Chúng ta ở đây để gây ảnh hưởng cho Sa-tan ở bất cứ nơi nào và trong mọi điều kiện có thể có được.”. Hắn dụ tôi trở nên môn đệ Sa-tan chẳng khó gì. tôi được dạy rằng những điều ác mà người ta nói đến đều là những điều hay và tốt cả. tôi bắt đầu tin tưởng như thế. Các môn đệ Sa-tan bóp méo mọi việc. Họ đảo lộn mọi giá trị nhưng có nhiều người tin chúng, ngay cả những người thông minh nữa. Mối liên hệ giữa tôi và Thủ lãnh càng ngày càng thân mật hơn. Tôi đã dự tất cả những buổi họp của môn đệ Sa-tan. Tôi được họ hứa hẹn nhiều điều khi trở thành môn đệ Sa-tan. Trở thành môn đệ Sa-tan không phải là một điều dễ vì phải tuân theo tất cả những luật lệ do chúng đưa ra. tôi xin ghi lại một ít điều luật ấy như sau:

1. Bí mật là điều tối quan trọng, không được tiết lộ cho bất cứ ai biết nơi nào có đền thờ Sa-tan.
2. Phải tin cậy, vâng lời và yêu mến Thủ lãnh, không một lời nghi vấn vì Thủ lãnh là đại diện cho Luy-xi-phe (Lucifer) trên đất. Môn đệ phải tuyệt đối theo Sa-tan trọn đời và hầu việc chỉ một mình hắn.
3. Môn đệ không bao giờ được bước vào nhà thờ Cơ-đốc, ngoài trừ có sự vụ lệnh đặc biệt của Thủ lãnh. Mọi tin tức thu lượm được phải báo cáo lại cho Thủ lãnh biết.
4. Không được đọc Kinh thánh. Kinh thánh phải bị giày đạp và bị đốt tại nhà thờ Sa-tan, cả Thánh ca hay tất cả văn phẩm nào thuộc về Kinh thánh cũng đều bị tiêu hủy.
5. Không ai được đến nhà thờ trễ cả, nếu trễ sẽ bị Thủ lãnh đánh trước hội chúng.
6. Quỷ Vương Luy-xi-phe (Lucifer) phải được tôn trọng như một vị tối cao ở bất cứ phương diện nào, ngay đến những lúc làm việc riêng. Phải vâng lời Ngài luôn luôn.
7. Tất cả những việc giết chóc, lường gạt, dối trá... đều được chấp thuận.
8. Cầu nguyện hằng ngày với Luy-xi-phe (Lucifer).

Chẳng bao lâu tôi đã thuộc lòng các điều luật và tin tưởng vào đó cách hết lòng. Thủ lãnh bây giờ là khách thường xuyên của quán rượu nơi tôi làm và tôi trở thành người tình của hắn, hắn mang ma túy đến cho tôi mỗi ngày. Hắn nói: “Đây là món quà hằng ngày của anh cho em, càng nghiện thuốc, cái vé đi xuống địa ngục càng có giá trị”. Mặc dầu tôi là người tình của hắn nhưng hắn chẳng đá động gì đến nghề mãi dâm của tôi. Hắn nói và tôi rằng càng làm điều ác bao nhiêu thì càng được phần thưởng sau này bấy nhiêu. Một ngày kia, hắn bảo tôi: “Bây giờ em thật sự có thể trở thành môn đệ ngoan của Luy-xi-phe (Lucifer) rồi đấy! Buổi lễ tuyên thệ của em sẽ được tổ chức trọng thể, sẽ có các môn đệ từ các nơi trên nước Anh đến dự”

Từ giờ đến khi buổi lễ bắt đầu, có khoảng hơn tám trăm môn đệ tập trung, dĩ nhiên, không có người nào dám đến trễ. Tôi được mặc một áo dài đen. Lời hát và kinh cầu nguyện với Thần tối tăm, Thần chết và vực sâu bắt đầu. Anh sáng của các ngọn đuốc tỏa sáng khắp nhà thờ. Những cái bình trên bàn thờ được cúng từng cái một luôn với những con dao bằng bạc. Thủ lãnh đứng dậy khỏi ngai. Hắn giơ tay lên, tất cả mọi người, kể cả tôi, đều quì xuống thờ lạy hắn. Hai người mặc đồ đen núp phía sau bục đem đến một con gà trống. họ cắt cổ gà và huyết được hứng vào một cái chén bằng bạc. Nhiều lời hát và lời kinh được xướng lên, họ cũng cắt nơi cánh tay tôi cho máu chảy ra hứng chung với chén máu gà. Thủ lãnh hôn con dao rồi quậy cho hai loại máu trộn chung với nhau. Tôi uống máu này rồi tuyên thệ với Sa-tan. Tiếp theo, tôi nhúng tay tôi vào máu rồi làm dấu vào một tờ giấy bằng da trừu để hứa rằng bắt đầu từ bây giờ tôi bà giao linh hồn tôi cho Sa-tan, mãi mãi trở thành môn đệ cho hắn đời đời. Bấy giờ tôi thật sự trở thành môn đệ của Sa-tan. Mọi người mừng vì có một đứa con của Sa-tan được sanh ra. các tội lỗi bắt đầu được diễn ra tiếp theo trong buổi lễ, có bao nhiêu là điều ác được thực hiện trong đêm đó. Còn tôi, tôi rất ngạc nhiên vì được làm một người dâng tế lễ cao trọng trong vòng các môn đệ của Sa-tan. Thủ lãnh nói rằng đó là lệnh của Luy-xi-phe (Lucifer) mà hắn phải tuân hành. Với địa vị như vậy, tôi dễ dàng phục vụ cho chủ tôi hơn. Tôi được vinh dự cầm cái bình ở nơi kín phía dưới đền thờ.

Từ chỗ nghe lén câu chuyện, nay tôi trở thành huynh trưởng các môn đệ của stv cũng là chủ của tôi. Tôi nghe cả tiếng nói và thấy hình dạng rõ ràng Sa-tan trước mặt tôi. Rất nhiều lần Luy-xi-phe (Lucifer) hiện ra trước bàn thờ trong bộ đồ đen, không một ai có thể chối cãi gì vì đó chính là Sa-tan. Chúng tôi từng nghe chuyện Luy-xi-phe (Lucifer) nói với hội chúng trong cả đền thờ: “Ta là Luy-xi-phe (Lucifer), Chúa của các con, ta truyền phán với các con bằng chính môi miệng ta. Hỡi các con, phải vâng theo tiếng ta, làm tất cả những điều ác nào các con thích. Đừng sợ, ta sẽ theo che chở cho các con mọi lúc. Hãy cứ làm thỏa mãn lòng tham dục của các con tối nay. Điều này làm đẹp lòng ta lắm”.

Tất cả chúng tôi vâng lời mà không cần thắc mắc. Thủ lãnh hay hai người cứ mổ xẻ cho nhau nhờ quyền phép của Luy-xi-phe (Lucifer). Họ không dùng một giọt thuốc nào, thế mà sau khi mổ xong, vết thương lại liền ngay, không còn vết thẹo nào. Chính tôi lúc ấy cũng bước vào sự hôn mê để nên biết quyền phép như vậy. Tôi có thể dễ dàng đọc được ý nghĩ của một người nào đó, biết họ đang và sẽ làm gì.
Độc giả có thể hỏi rằng một người như tôi mà Chúa Giê-xu còn nhớ đến sao? Kinh thánh nói rằng Giê-xu chết thế mọi người, phải, ngay cả đến môn đệ của Sa-tan nữa.

Nữ hoàng của những phù thủy đen

Thời gian trôi qua, sự hiểu biết về Thần linh quỉ sứ của tôi gia tăng, các lần thờ phượng Sa-tan và được làm phận sự như một nữ tư tế là những giờ phút quan trọng nhất cho tôi.ngay cả những lúc ra khỏi đó, hình ảnh của Sa-tan cũng rất rõ với tôi. Dường như có một bàn tay huyền bí nào đó đẩy tôi vào thế giới của sự tối tăm. Một ví dụ điển hình là tôi tôi rất ít ngủ và tôi được ban cho một quyền lực siêu nhiên không cần ngủ để lo hầu việc nó. tôi thật là một đệ tử trung thành của Sa-tan, luôn theo đúng với lời thề của tôi. Có một điều kỳ lạ là tôi luôn cất giữ quyển Thánh ca. Theo luật của Sa-tan thì phải tiêu hủy quyển đó, nhưng tôi không làm vì đó là món quà duy nhất trong thời thơ ấu của tôi. Gần như tôi quên mất rằng tôi có một quyển Thánh ca mà tôi đã giấu một nơi trong chỗ tôi ở. Có rất nhiều người qua lại nhưng không một ai trông thấy, nhất là Thủ lĩnh. Một lần nọ, trong lúc tôi cùng uống chén với người yêu cũng là chủ của tôi, hắn dường như say mê tôi, hắn nói: “Anh là một PHÙ THỦY ĐEN”. Tôi sặc sụa khi nghe những lời hắn nói. _“Đó không phải là chuyện giỡn nha”, tôi vừa nói vừa cười. Y nghĩ của tôi lúc đó rằng ma thuật chỉ là câu chuyện xa xưa hoang đường nói về một mụ phù thủy cưỡi chiếc chuổi chà, bay qua mặt trăng. Nhưng tôi mới khám phá ra sự thật. Ma thuật của ma quỷ chẳng xa xôi gì khi đã trở thành môn đệ của Sa-tan. Điều chính yếu khác biệt điều hai bên là môn đệ thì thờ phượng Sa-tan ở đền thờ còn phù thủy thì không cần đền thờ. Ma thuật thực hiện bất cứ nơi nào miễn là nơi đó vắng vẻ, như một căn nhà hoang, một khu rừng vắng, một bờ biển yên lặng. Giờ thực hiện ma thuật tốt nhất là lúc nửa đêm dưới ánh trăng. Phù thủy rất nhiều bùa phép. Điều họ từng làm nhất là đào những thi hài mới chôn để dâng cho Sa-tan. Họ rất nhiều bùa phép và cũng biết thư. Phù thủy của Sa-tan tin rằng trong sự tranh chấp giữa điều ác và điều thiện thì điều ác sẽ thắng. Họ tin rằng Luy-xi-phe (Lucifer) một ngày kia sẽ thắng Chúa Cứu thế Giê-xu và Sa-tan sẽ khôi phục lại địa vị của hắn. Sa-tan sẽ cai trị cả vũ trụ này. Địa ngục, theo các nơi cho là kinh tởm., nhưng đó là nơi vui thú. Xin lưu ý rằng những người đi xuống trên con đường ma thuật đều đánh mất nhận thức của họ, từng điên loạn. Cái gì xấu thì gọi là tốt, cái gì tốt thì gọi là xấu mà không biết gì cả.

Sau khi bàn bạc với tôi một hồi lâu về ma thuật của phù thủy, hắn nói: “Em sẽ là một phù thủy giỏi, em có quyền năng siêu nhiên rất lớn.”. Thật vậy, tôi không có quyền năng rất lớn mà là của Sa-tan. Tôi rất ngạc nhiên về những lời hắn vừa nói. Cặp mắt đen của hắn dường như có một tia sáng lạ lùng, nhìn tôi, nó thôi miên tôi, gương mặt của hắn có vẻ khác từng mà tôi chẳng từng thấy bao giờ. Tôi có ý nghĩ muốn chạy xa hắn, nhưng không được, tôi đành chấp nhận lời nói của hắn và đến bãi tập phù thủy. Tôi tự biện hộ “Cái đó cũng chẳng xấu xa gì hơn là làm môn đệ Sa-tan mà”. Tôi luôn vâng lời Thủ lĩnh của tôi và thế là tôi trở thành phù thủy. Việc đầu tiên trở thành phù thủy mà tôi phải làm là lấy máu dê bôi khắp cả mình.những công việc tiếp theo sau đó là những điều ác cần phải ghi sâu vào tâm trí. Tất cả những buổi hội họp thì đầy dẫy những tội ác, những hành động tà dâm cũng là một hình thức của ma thuật.
Bây giờ tôi có quyền phép rất lớn, hơn trước nhiều và càng gia tăng mỗi ngày. Tôi có thể giết một con chim đang bay cách dễ dàng. Tôi có thể làm cho mọi việc xuất hiện rồi biến mất. Tôi thực tập ma thuật trong thời gian rất ngắn so với các phù thủy khác học tập suốt đời mà không bằng tôi. Vì thế, tôi không ngạc nhiên khi Thủ lĩnh của tôi nói rằng tôi tiến bộ quá mau trên con đường ma thuật. Rồi một hôm hắn bảo: 

_“Đai-ơ-na (Diana), một ngày nào đó em có thể làm nữ hoàng phù thủy đấy!”
_“Anh nói gì? Em là gì cơ?”
_“Vâng, anh ghi tên em vào danh sách ứng cử viên, nhưng em phải tập cho nhiều để ứng thí nhé!”

Cuộc thi mà Thủ lĩnh lựa chọn sẽ diễn ra tại bãi hoang Tôi theo lệnh của chủ tôi mà tập dượt ma thuật, luyện bùa cho giỏi.

Hôm đó, vào lúc nửa đêm,trời không một gợn mây, một đêm hết sức thích hợp cho cuộc trình diễn ma thuật. Những phù thủy trần truồng đang tích cực chuẩn bị tập dượt phù phép để soi sáng cho ngày thi sắp đến. Tôi cũng là một phần tử trong giới họ. Thình lình, chúng tôi thấy có ba người đàn ông xuất hiện, họ đang đi về phía chúng tôi, nhưng họ không thấy chúng tôi, chỉ ít phút nữa là họ đến nơi chúng tôi thực tập rồi. Ở đó, chẳng có một tảng đá hay cây cối gì cả để chúng tôi ẩn mình tránh khỏi cặp mắt dò xét của họ, vì phương châm của chúng tôi là “Bí mật là điều tối quan trọng”. Một phù thủy lo sợ hỏi:

_“Chúng ta phải làm sao bây giờ?”
_“Đừng sợ!”, tôi bảo, “tôi làm phù phép cho họ không trông thấy tôi”
_“Nhưng còn chúng tôi thì sao?”

_“Được rồi, nếu mấy người nắm tay tôi, tôi sẽ làm phép giấu mấy người luôn”
Không có thì giờ chần chờ nữa, tất cả mọi người làm theo lời tôi. Chúng tôi đứng thành vòng tròn dang tay ra, nắm tay nhau lại. Chúng tôi có thể nhìn thấy nhau, trong lúc ba người đàn ông đi ngang qua sát đến nỗi nếu giơ tay ra thì có thể đụng họ. Một trong ba người rúc vào vòng tay của chúng tôi. Ma thuật của tôi đã thực hành đúng lúc, ba người đàn ông chẳng thấy gì cả. Một trong ba người nói: “Thôi, chúng ta đi về đi, chúng ta phí cả công”. Khi ba người vừa khuất dạng thì đám mây mù cũng dần dần tan biến đi.

Một tờ báo sáng hôm sau cho tôi rõ lý do mấy người đàn ông đó có mặt ở bãi hoang tối hôm trước vì một tựa đề lớn trên tờ báo “Không có phù thủy trên bãi hoang”. Sau này tôi nghe được rằng tối hôm đó ba vị truyền đạo nghe nói có phù thủy ở bãi hoang, nên họ đến xem thử thực hư thế nào và sự tìm kiếm của họ đã không thành công. Còn về phần chúng tôi thì rất vui mừng. Sự việc đó được thuật lại ở các bãi tập khác và danh tiếng tôi được đồn vang trong giới phù thủy. Có người sẽ thắc mắc tại sao Chúa không cho ba nhà truyền đạo đó thấy chúng tôi? Tôi tin chắc rằng Chúa có mục đích riêng của Ngài. Dĩ nhiên, Ngài không để các tôi tớ Ngài bị ám hại, vì lúc đó tôi đã đem hết sức phù phép của tôi để ám hại họ nhưng tôi đã không thể làm gì họ được: Họ là con cái của Đức Chúa Trời. Một hàng rào vô hình đã ngăn cách chúng tôi với các nhà truyền đạo. Tôi thấy choáng váng. Phù phép của tôi chưa bị thất bại bao giờ, nhưng lúc đó tôi không hiểu rằng có một quyền năng rất lớn, lớn gấp bội lần bùa phép của tôi, ấy là Chúa Giê-xu, Đấng chiến thắng tử thần, thiên đàng và Sa-tan trên thập tự giá tại đồi Gô-gô-tha. Vì thế, mặc dầu đêm đó tại bãi hoang Đi-vơn (Devon), một biến cố xảy ra chứng minh rằng quyền phép của Sa-tan rất lớn nhưng không thể thắng nổi quyền năng của Đấng Chí cao là Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Tiếp theo đó, một buổi lễ được chuẩn bị rất chu đáo để đón tiếp các phù thủy từ các nơi trên nước Anh cũng như các phù thủy ở các quốc gia khác như Hòa-lan, Đức, Pháp để chọn một nữ hoàng kế tiếp. Tất cả đều tụ tập tại Ha-lô-oen (Hallowen). Trong khách sạn, họ như những nhà doanh thương, chẳng ai biết họ là những phù thủy, cả đàn ông lẫn đàn bà. Riêng tôi, đêm đó tôi đã uống một viên á phiện để có thêm can đảm mà vượt qua những thử nghiệm trong cuộc thi. Buổi lễ bắt đầu bằng tiếng hát với ma quỷ. Tiếp theo là cuộc thi trổ tằi phù phép. Cuối cùng có bảy người được chọn, trong đó có tôi. Không phải dễ thành công đâu vì tất cả đều có phù phép rất lớn. Một con chim thả ra từ cái lồng và tôi giết nó trong lúc nó đang bay. Đây là một phù phép mà tôi đã từng làm trong những lần trước và lần này cũng chỉ có mình tôi làm được thôi. Tiếp theo là những cuộc thi gay go khác nhưng bao giờ cuộc thi cuối cũng là cuộc thi khó khăn nhất, đó là đi trên lửa. Một đám lửa lớn được đốt cháy bừng bừng, và ứng viên nào đi trên lửa đó có Luy-xi-phe (Lucifer) là người thành công. Tôi tin tưởng nơi phù phép rất lớn của tôi. Tôi bước vào đống lửa. Lúc đó ngọn lửa cháy có độ cao khoảng bảy bộ (khoảng hơn hai mét) hay hơn nữa. Miệng tôi luôn kêu Quỷ vương Luy-xi-phe (Lucifer). Thình lình, tôi thấy hình hài nó xuất hiện rõ trước mặt tôi _gương mặt hắn đen thui. Tôi nắm lấy tay hắn, hắn dẫn tôi đi vào đống lửa lớn qua phía bên kia, rồi hắn biến mất. Tôi không hề hấn gì cả, không một sợi tóc nào bị cháy sém. Mọi người quì mọp xuống đất _“Ha! Đai-ơ-na (Diana), nữ hoàng của phù thủy đen!”. Tiếng la vang dậy của hơn một ngàn phù thủy. Người ta đội cho tôi một vương miện bằng vàng, một áo choàng viền vàng vấn ngang mình tôi, tay trái tôi được họ đeo một chuỗi ngọc. Tôi chững chạc lên ngồi trên ngai đã chuẩn bị từ trước. Những hình thức khác tiếp theo buổi lễ như khiêu vũ khõa thân, thỏa mãn tình dục, ăn uống, chích á phiện. Đai-ơ-na (Diana), nữ hoàng của phù thủy, dĩ nhiên là tâm điểm thu hút dưới cặp mắt hãnh diện của người tình và cũng là chủ của nàng, là Thủ lĩnh của các môn đệ Sa-tan. Có lẽ có người cười khi đọc đoạn này nhưng nếu họ có mặt đêm đó tại bãi hoang thì hẵn họ sẽ không cười được nữa. Tôi biết ma thuật là điều có thật, vì tôi há chẳng phải là nữ hoàng của phù thủy rồi sao?

Không lối thoát

‘Nữ hoàng của phù thủy đen”, thật tôi đang đứng trên địa vị vô cùng quan trọng, đối với tôi và với tất cả những kẻ thuộc về Sa-tan. Một địa vị mà tất cả các phù thủy hằng mơ ước và ganh tị. Cái địa vị mà các phù thủy phải trải qua tháng năm tập dượt, học hỏi. Với địa vị đó, tôi đi du hành nhiều nơi, tiêu xài rất xa hoa, dĩ nhiên là đi với Thủ lĩnh. Nào Hòa-lan, Pháp, Đức... Các phù thủy nước ngoài sẵn sàng đón hai vị khách quý cách hết sức trọng thể. Chúng tôi chỉ ở tại những khách sạn lớn và sang trọng hay những dinh thự nguy nga là nhà của các phù thủy. Cuộc hành trình có thể mệnh danh là cuộc hành trình tội lỗi. Không có hàng rào nào ngăn cách bởi ngôn ngữ loài người. Mỗi lần gặp khó, tôi kêu cầu Luy-xi-phe (Lucifer) đến giúp và hắn đã thật sự đến giúp tôi, nên chẳng bao lâu tôi có thể hiểu và nói cách rõ ràng, thông suốt cái ngôn ngữ mà trước đó tôi chưa hề biết. Chúng ta có câu “Sa-tan giúp đỡ những kẻ thuộc về hắn” là đúng lắm. Hắn giúp tôi để hoàn thành mục đích của hắn.
Có nhiều đề tài đem ra bàn luận, nhưng đề tài chính là làm thế nào cho ma thuật mỗi ngày thêm thu hút. Có rất nhiều người, nhất là thanh niên, họ ưa thích nghe nói đến những chuyện huyền bí, vì thế, phải có một cái nhìn mới về ma thuật. Những vấn đề quan trọng cần đặt ra để hướng dẫn như: Họ không cần sợ một ai hết, mở rộng lãnh vực trình diễn ma thuật và phù phép về thế giới huyền bí. Ltn để bớt lộ ra vẻ xấu xí trong ma thuật, khiến người ta nghĩ rằng ấy là một điều tự nhiên trong trời đất. Cố che đậy những điều ác để dễ hấp dẫn. Càng gia tăng môn đệ càng tốt. Thì giờ rất ngắn và đây là thì giờ để rập bẫy người ta. Một khi họ đã bước vào thế giới huyền bí rồi thì khó lòng có thể trở ra được. Sự sợ hãi sẽ giữ họ lại và sẽ không có con đường nào khác. Bọn phù thủy chúng tôi sốt sắng bàn luận với nhau nhiều ngày về những điểm trên. Chúng tôi không để phí thì giờ vàng ngọc. Chia xẻ kinh nghiệm, trình diễn phù phép và viếng thăm bãi tập phù thủy là công việc của chúng tôi trong những chuyến du hành. Trở lại nước Anh, tôi để nhiều thì giờ viếng thăm các bãi tập. Có rất nhiều đệ tử mới, khuyến khích họ là điều rất hệ trọng. Các phù thủy trắng cũng đang trổ tài trong các phù phép của họ. Chúng tôi cần làm đủ cách để thu hút hội viên mà không cho họ biết rằng họ phải dâng tế lễ bằng chính máu họ vì điều đó dễ làm họ kinh tởm. Các phù thủy trắng cũng lần lượt bước vào giai cấp của phù thủy đen. Tôi muốn nhắc lại ở đây rằng các phù thủy trắng cũng có thể ếm bùa chú ám hại người khác đấy. 

Những phù phép mà các phù thủy trắng từng làm là thư. Họ làm một hình người bằng đất sét tiêu biểu cho người mà họ muốn thư. Họ dùng kim đâm vào miệng hay bất cứ nơi nào ở con người đất thì nơi con người thật mà họ muốn hại cũng sẽ bị đau tại chỗ đó và không thuốc men nào có thể chữa được.

Tôi làm nữ hoàng của phù thủy đen được tròn một năm. Tôi muốn xuống ngai để nhường địa vị lại cho một phù thủy trẻ hơn, mặc dầu nếu muốn, tôi có thể giữ lại địa vị đó. Vừa khi tôi xuống ngai nữ hoàng thì Thủ lĩnh cũng tìm một người tình mới. Lúc đầu, tôi giận dữ và đau đớn lắm, nhưng vì hắn là Thủ lĩnh, nên tôi không thể làm gì khác hơn là đành chấp nhận, tốt hơn hết là lánh đi chỗ khác cho bình yên.

Tôi rời Luân-đôn và đi về miền quê trong vài năm. Thỉnh thoảng, tôi đến Luân-đôn để mua bạch phiến hoặc đi vào đền thờ để thờ phượng Sa-tan. Cuộc sống của tôi bớt náo nhiệt hơn nhưng cũng những nấm mồ hoang. Vì từng là Nữ hoàng của phù thủy đen nên tôi đã quen nếp sống xa hoa rồi. Tôi dùng những phù phép rất lớn của tôi để lừa gạt những người tôi gặp, nhưng chẳng người nào biết được công việc tội ác của tôi kể cả những người đàn ông chung đụng với tôi. Tôi điều khiển trí óc người khác để lường gạt họ. Mặc dầu cuộc sống của tôi bên ngoài thì chẳng có gì thay đổi mấy nhưng trong thâm tâm tôi bắt đầu sợ: Sợ già và sợ chết. Càng sợ thì những câu hỏi càng dồn dập trong tôi. Địa ngục có phải là nơi đẹp đẽ như tôi hằng tin tưởng không? Nếu nó ngược lại thì sao? Khi sự nghi ngờ càng rõ ràng tôi cố gắng vùng vẫy để thoát ra khỏi xiềng xích của Sa-tan và đệ tử của nó. Dĩ nhiên, tôi phải hết sức thận trọng. Tôi dự tính sẽ thoát ra một cách từ từ để không một ai biết được. Mình phải cố gắng đạt đến mục đích cuối cùng mới thấy giá trị của nó chứ, tôi tự nhủ như thế.trong lúc tôi đang ở giữa bãi thực tập ma thuật, tôi lại nghĩ ngộ bây giờ việc làm của mình là đúng thì sao? Một sự sợ hãi vô hình bấu chặt lấy tôi. Tôi thấy mình đã nhầm lẫn một cách đáng sợ và đang bị mắc bẫy trong một hang sâu, tối hun hút, không nhìn thấy một tia sáng nào cả.

Trong lúc càng ngày tôi càng nghi ngờ về chính mình và những gì tôi đang theo đuổi, tôi quyết định viếng một vài nhà thờ của Hội thánh Tin lành chỉ để xem thử họ có câu giải đáp nào cho tôi không. Những cuộc viếng thử này xảy ra không nhiều lắm, nhưng cuối cùng thì tôi cũng đi, điều mà một phù thủy đen không bao giờ làm. Luôn luôn lo sợ sẽ có ai đó săn đuổi tôi, tôi cẩn thận cảnh giác. Thế rồi tôi lại nghĩ: Điều này có ích lợi gì nữa, mình đã bán linh hồn mình cho Sa-tan rồi, bằng chính máu mình mà. Nhưng tại sao tôi lại nghi ngờ chính mình tôi? Có phải tại tôi không còn sốt sắng đi họp với các phù thủy mỗi tuần hai lần chăng? Hay là Chúa Giê-xu đã khiến tôi có mối nghi ngờ này. Tôi tin cái lý do sau là đúng hơn. Thật chắc chắn, tôi tin rằng Đấng Cứu Thế , Ngài đã yêu thương, đoái đến tôi, theo dõi đứa con của Ngài đang ở trong vũng lầy của sự tối tăm.

Sau những lần lang thang đây đó, tôi đến Đơ-rít-xtâm (Dristem), một vùng âm u của Thánh đường Phao-lô. Không ai có thể hiểu được nỗi cô đơn buồn chán của tôi lúc này. tôi sẽ mất khá nhiều thì giờ kiếm cho ra bãi tập phù thủy. Một số phù thủy ở đây nhớ lại cái đêm mà tôi đã đăng quang tại Đi-vơn (Divon), vì thế, tôi rất được họ kính nể. Tuy nhiên, cuộc sống tôi vẫn thế, vẫn lo sợ, cô đơn, buồn chán. Tôi nghĩ có cố gắng cũng không có lối thoát nào nữa.

Bri-xơ-tôn (Bristol) là thành phố có rất nhiều nhà thờ Cơ-đốc. Dường như mỗi góc phố đều có một nhà thờ. Tôi viếng vài nơi nhưng chỉ chốc lát rất đi ra, chẳng bao giờ tôi ngồi trọn buổi thờ phượng. Tôi cũng không nhớ nội dung các buổi thờ phượng đó ra sao. Ở trong tình trạng chập chờn, lưỡng lự như thế mãi rồi thời gian cũng làm cho tôi quên mất rằng tôi đang đi tìm kiếm lẽ thật. Tôi coi tất cả Cơ-đốc nhân là những người giả hình, cả đến những hoàn toàn Cơ-đốc giáo cũng làm tôi khó chịu không ít. Một hôm, tôi chú ý đến một bích chương dán phía trước nhà thờ, trên đó có ảnh của một vị truyền đạo. Tôi tự hỏi có phải là vị truyền đạo đã đi đến bãi hoang để tìm phù thủy không nhỉ. Lần đó tôi đã cố gắng hãm hại ông ta mà không hiệu nghiệm, bây giờ ông ta lại đến Bri-xơ-tôn (Bristol) sao? Tôi vội vã đi tìm gặp ông ta, quả là một sự mầu nhiệm! Tôi cố gắng hết mức để loại ông ta ra khỏi đầu óc tôi, nhưng Đức Chúa Trời có một đường lối riêng của Ngài cho tôi.

Một buổi tối mùa hạ, tôi đi trên những con đường quen thuộc, có hai người bạn, cũng là gái mãi dâm cùng đi với tôi. Thình lình, tôi thấy một bích chương và dừng lại. Tờ bích chương ghi rằng “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch vì sẽ thấy Đức Chúa Trời ”. Lời đó khuấy động tôi không ít, nhất là chữ trong sạch . Tôi nổi cơn giận dữ. ‘Ta không trong sạch, vì thế ta không bao giờ có thể thấy được Đức Chúa Trời, nếu thật có một Đức Chúa Trời”. Nếu có Thượng Đế thật, tôi không biết chắc. Tiến tới gần tờ bích chương, tôi nắm và xé tan. Ngạc nhiên quá, tôi thấy bên trong lại lòi ra một tờ khác. Tôi bỏ tờ bích chương nhàu nát xuống đất. “Đó là lời của bọn người đạo đức giả”, tôi lẩm bẩm,còn hai bạn tôi thì cười. Họ đang vui sướng nên cười, còn tôi, tôi đang giận dữ. Sự thật thì lúc đó lương tâm tôi đang cắn rứt, đau nhói, Đức Chúa Trời đang theo đuổi tôi.s ngẫu nhiên này là con đường sửa soạn cho tôi với những gì sắp xảy ra về sau, nhưng lúc đó tôi chẳng hiểu gì cả. vài tháng sau tôi lại lang thang trên đường phố tại Brix-tôn (Bristol). Hôm đó là một sáng Thứ hai, một buổi sáng mà ít khi tôi rằng đường. Tôi đi lang thang không mục đích cũng giống như chính cuộc đời tôi vậy. Tôi chú ý đến một tờ bích chương lớn dán ở đầu đường: Mời Bạn Đến Nghe Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) Ở Hội trường Côn-xtơn (Colston Hall), Hàng Ngàn Người Đã Đến Nghe, Mời Bạn Cùng Đến! Tờ bích chương không nói Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) đến Bri-xơ-tôn (Bristol) để làm gì, chỉ có một tấm hình của ông thôi. Vừa thoáng nhìn, tôi phỏng đoán ông ta là một nhà đô vật. Tôi quyết định tìm biết ông ta là ai và làm gì. Tôi bước đến một nhà bên cạnh:

_“ Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) là ai vậy, hở bà?”
_“Tôi không biết, cô à!”
_“Tôi đoán ông ta là một nhà truyền đạo nào đó”, một người khác nói.

_“Bộ ở Bri-xơ-tôn (Bristol) hết người giải rồi sao phải rước ông ta đến chứ?”. Tôi giận dữ hét lên, tôi kiếm các tờ bích chương nào có tên Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) để xé hết. Tôi đi khắp nơi và chỉ vài ngày tôi đã xé được rất nhiều bích chương. Cơn giận dữ của tôi vẫn không nguôi, nhưng lần này tôi thay đổi chiến lược: Thay vì đi xé những bích chương, tôi sẽ quăng một khúc củi vào mặt hắn, việc này thì bạn tôi đồng ý lắm. Lúc ấy, Biu-li Gờ-ra-ham (Billy Graham) được rất nhiều người biết đến, tôi gọi hai người: ông Biu-li Gờ-ra-ham (Billy Graham) và Hớt-chinh (Hutchings) là một cặp giả hình. Các bạn tôi tỏ ra lo lắng cho hành động liều lĩnh của tôi: “Nè, Đai-ơ-na (Diana), họ làm chuyện gì vậy? Họ có làm gì mày đâu?”. Tôi quát: “Chứ họ có làm gì tốt cho tao không?”. Tại sao lòng tôi đầy dẫy sự ganh ghét các Cơ-đốc nhân? Lu-xi-phe (Lucifer) là chủ của tôi rất không bằng lòng khi thấy số Cơ-đốc nhân bành trướng ở Brix-tôn (Bristol). một chiến dịch giảng Tin lành đại quy mô được tổ chức ở một Hội trường lớn, còn tôi, tôi nghĩ rằng tôi đã bị sa vào một cái bẫy rồi; tôi không có lối thoát và tôi vẫn tiếp tục sống trong con đường tội ác của tôi.

Bước đầu tiên đến tự do

Hôm đó, một đêm mùa thu năm 1964, trời thật đẹp. Đã ba tuần qua, từ ngày tôi xé những bích chương kia, thì tiếng đồn rằng Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) đã tới. Tôi đã quên hết những gì về ông ta, vả lại, hôm đó là Thứ bảy nên tôi rất bận rộn trong nghề nghiệp. Tôi mặc quần áo theo nghề nghiệp của mình, đứng bên đường để đợi khách. Thình lình, tôi thấy một đám đông người đang tiến đến một địa điểm nào đó. Tôi phân vân không hiểu tại sao hôm nay có nhiều người đến giữa phố Bri-xơ-tôn (Bristol) này, rồi tôi để ý thì thấy một vài người trong họ có mang theo Kinh thánh. Tôi lẩm bẩm: “Ừ, đó là một đám người giả hình”. Thế rồi tôi lủi thủi theo sau đám đông và bước vào Hội trường ở Côn-xtơn (Colston Hall),. Tôi quyết định trong lòng rằng tôi sẽ cho Hớt-chinh (Hutchings) biết tôi nghĩ gì về ông ta và buổi giảng tối nay. Tối đó, tôi không mấy tỉnh táo. Tôi bị đẩy vào giữa đám đông người trong Hội trường. Tôi chỉ có một mục đích là: Chạy tới, đấm vào mặt Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) một cái. Nhưng lạ thật, ông ta đã đến, trước khi tôi ra tay, ông ấy chỉ cho tôi một chỗ còn trống. Mọi người trong hàng ghế vội đứng lên để đi tôi vào. Tôi mặc một áo dài màu đen, cổ đeo một chuỗi hạt dài. Tôi cảm thấy khó chịu khi mọi người cứ chăm chăm nhìn tôi. Tôi chăm chú nhìn lên bục giảng. Ở đó có một hàng ghế của các vị mục sư và phía sau họ là ban hát mặc đồng phục trắng. Tôi bắt đầu thấy lúng túng, những người ngồi phía trước quay lại nhìn tôi. Họ nhìn tôi đăm đăm, khó mà làm cho họ quay đi chỗ khác được.

Buổi lễ bắt đầu với những bản Thánh ca thánh thót nhưng tôi không hát với họ, tôi đang suy nghĩ cách nào để ra khỏi đây mà không làm ai chú ý. Thật khó quá nếu đứng lên đi ra lúc này. bài Thánh ca chấm dứt, mọi người ngồi xuống trừ một mình tôi vẫn còn đứng, vì tôi còn đang tìm dịp để rút lui. Ngay sau đó, có một người đứng lên hát một bản Thánh ca rất êm dịu. Tôi chú ý lắng nghe. Nàng hát rằng: 

“Tôi rất vui được nói cùng bạn những gì tôi nghĩ về Giê-xu. Từ khi tôi tìm được nơi Ngài là Người Bạn Chân Thật. Tôi muốn nói với bạn thế nào Ngài đã hoàn toàn thay đổi đời sống tôi. Ngài đã làm cho tôi những việc mà không ai có thể làm được. Cả đời tôi chất chứa tội lỗi, khi Ngài tìm kiếm tôi. Cả đời tôi chất chứa ưu phiền và cô đơn. Giê-xu đã choàng đôi tay Ngài quanh tôi, và Ngài đã dẫn dắt tôi đi theo con đường tôi đang phải đi. Không một ai lo liệu cho tôi bằng Giê-xu. Không một ai nhân từ bằng Ngài. Không một người nào khác có thể cất tội lỗi và sự tối tăm ra khỏi tôi. Ô, Giê-xu, Ngài lo toan cho tôi biết bao! ”

Có điều gì đó rất tuyệt diệu không thể giải nghĩa được đang xảy ra trong tôi, cái gì đó mà tôi chưa kinh nghiệm bao giờ. Tất cả đời sống tôi như được diễn ra trên màn ảnh, trí óc tôi lúc đó rất minh mẫn.t thấy như mình đang ở trong lớp học Trường Chúa nhật lúc còn thơ ấu để nghe cô giáo bảo: “Tại sao em không mời Chúa Giê-xu vào lòng em?”. Tôi thấy rõ những việc nhơ nhuốc, xấu xa mà tôi đã và đang làm. Tôi nhớ lại những bài hát tôi đã nghe được trong buổi giảng Tin lành ở phố Pát-đinh-tơn (Paddington) trước đây. Và bây giờ thì ca sĩ ấy đang hát rằng: “Giê-xu lo liệu, Giê-xu chăm sóc và Giê-xu có thể cất tội lỗi đi ”. Ôi, có thật như vậy không!? Có thể bảo rằng Giê-xu đang sống và Ngài là Đấng hay săn sóc? Có thể nào Ngài yêu tôi được chăng? Một con đĩ, một tên nghiện, một mụ phù thủy? Ôi! Nếu đó là sự thật, tôi sẽ yêu Ngài và chạy đến với Ngài liền. Tôi đã dại dột bỏ đi những năm tháng, ngày giờ phước hạnh này. tôi hoàn toàn quên mất rằng lúc ấy tôi đang một mình đứng giữa đám đông. 

Tôi hơi mắc cỡ khi cô ca sĩ chấm dứt. Bét-ti Lu-miêu (Betty Lou-Mills) là tên cô ca sĩ ấy, gương mặt nàng thật rạng rỡ như tỏa hào quang mà tôi chính từng thấy trên nét mặt ai tại những nơi tôi từng lui tới. Tôi run rẩy ngồi xuống. Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) bắt đầu bài giảng của ông: “Nếu bạn không biết Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế thì bạn là kẻ hư mất. Bạn bị chết trong tội lỗi của bạn. Kinh thánh chép rằng bạn là kẻ nô lệ...”. Ông ta nói đúng! Một sự yên lặng bao phủ hội chúng. Ông tiếp tục bài giảng cách nồng nhiệt hơn: “Nếu bạn đi nhà thờ mỗi Chúa nhật mà không để Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của bạn, thì bạn cũng là kẻ hư mất”. Tai tôi lùng bùng bảo những lời trên, và tôi muốn lặp lại âm thanh “Nghe rồi, nghe rồi!”, nhưng tôi kịp nhận ra rằng mọi người đang nhìn tôi, nên tôi yên lặng. Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) tiếp tục: “Giê-xu đã chịu chết cho mọi người. Nếu ai trở lại cùng Ngài thì Ngài sẽ giải phóng người ấy ra khỏi xiềng xich của Sa-tan và đem người ấy đến sự tự do thật”. Tim tôi đập thình thịch. Ngài có thể giải thoát tôi được sao? Tôi không thể nhớ hết bài giảng tuyệt diệu đó. Cuối cùng có tiếng mời gọi: “Hãy đến với Giê-xu đêm nay! Hãy tiến luôn phía trước!” người ta bắt đầu lên phía trước. Ca đoàn bắt đầu hát: “Tôi đây là một tội nhân, nhưng huyết của Ngài đã đổ ra vì tôi, và Ngài muốn kéo tôi đến gần Ngài. Ôi, Lạy Chiên Con của Đức Chúa Trời, con xin đến, con đến ngay! ”.

Xiềng xich của Sa-tan dường như trói buộc tôi vào ghế. Tôi nghe rõ tiếng của quỉ sứ nói: “Mày thuộc về tao rồi, mày không được đi, đã quá trễ cho mày rồi, mày thuộc về tao rồi”. Tôi run lẩy bẩy từ đầu đến chân. Một trận chiến lớn diễn ra tranh chiến với quyền năng của sự tối tăm trong tôi. Chủ của tôi đang đánh trận để giữ tôi lại. Ca đoàn tiếp tục hát câu thứ hai.
Thật là một phép lạ, tôi còn đứng được trên đôi chân của mình, tôi bước từng bước tiến về phía trước. Sa-tan đã thất bại trong cuộc chiến. Sa-tan đã mất kẻ nô lệ của nó. Giê-xu là Đấng săn sóc tôi, dầu tôi là một tội nhân hổ nhục. Bây giờ tôi đang đứng phía trước, nước mắt tôi tuôn trào trên khuôn mặt lòe loẹt phấn son. Tôi thì thầm “Lạy Chúa Giê-xu, con xin đến đây với Ngài, xin cất sự tối tăm ra khỏi con”. Tôi đã không biết phải cầu nguyện như thế nào, nhưng có phải chúng ta cần phải biết cầu nguyện thế nào không nhỉ? Đấng Cứu Thế đã nghe lời thở than tự đáy lòng tôi và chấp nhận tôi mặc dầu tôi là con người xấu xa thậm tệ. O, thật là đêm phước hạnh, có lẽ giống như ở thiên đàng! Tại phòng hướng dẫn mọi việc lại khác hẳn. Tôi không phải là một người dễ dìu dắt. Sự sợ hãi và nghi ngờ lại xâm chiếm tâm khảm tôi. Tôi nghe cả tiếng của Sa-tan nói: “Mày không thể thay đổi được, mày thuộc về tao rồi”. Một sự lo lắng bao trùm tôi. Rồi cuộc sống sau này của tôi sẽ ra sao? Có thể nào tôi sống thiếu thuốc được chăng? Làm sao tôi có thể bỏ được mọi sự bây giờ? Có rất nhiều Cơ-đốc nhân chỉ cho tôi xem Ngài câu Kinh thánh, nhưng tôi không thể tiếp nhận. Tôi lo sợ phải nói ra cho họ biết cuộc sống của tôi. Tôi e rằng họ sẽ bỏ tôi nếu họ biết tôi là một phù thủy, một gái mãi dâm và là một tay nghiện có hạng... Tôi chỉ nói với họ rằng tôi chỉ là một người ghiền. Làm sao tôi biết chắc rằng họ sẽ không từ bỏ tôi? Họ nói: Nếu bạn mời Chúa Giê-xu vào lòng bạn thì mọi sự sẽ ổn thỏa ngay! Tôi không tin mọi việc lại dễ dàng thế, tôi đồng ý cmg, mặc dầu khó làm cho tôi tin những điều họ nói là thật. Có lẽ họ đúng, đến sáng mình thức dậy, có thể mọi sự sẽ đổi khác?

Tôi nghĩ như vậy. Một phụ nữ Cơ-đốc đã trò chuyện với tôi, đó là là bà Me-ri Hớt-chinh (Mary Hutchings). Bà nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho cô”. Tôi thích bà lắm ngay từ lúc đó. Sau cùng tôi từ giã bà, rồi mang về một quyển Tin lành Giăng và một quyển sách nhỏ nữa có tựa đề “Bước Đầu Tiên Với Chúa Cứu Thế”. Tôi là người về trễ nhất, lúc đó đã hơn nửa đêm, mọi người khác đã về từ lâu.

Một số gái mãi dâm đang đứng chật cả góc đường. Thấy tôi, họ vội gào lên: “Ê, Đai-ơ-na (Diana), mày đi đâu từ tối đến giờ vậy? Tụi tao kiếm mầy quá chừng!”. Tôi trả lời: “Tao vừa được cứu ở Hội trường Côn-xtơn (Colston Hall)”. Họ nghĩ rằng tôi lừa họ nên cười lớn. _”Tao nói thật đó, tao mới vừa dâng lòng tao cho Chúa Giê-xu ở Hội thánh”. Họ chẳng tin lời tôi chút nào.

_“Nè, Đai-ơ-na (Diana), lại đây! Tụi tao là bạn của mày mà”
_“Thì tao hiểu tụi mày mà. Tao đâu có loại trí, tao nói thật đó, bây giờ tao phải về nhà để đọc quyển Kinh thánh của tao”. Tôi đưa cho họ coi các sách mà tôi mắt nhận được. “Chúc tụi mày ngủ ngon, tao về đây!”.

Tôi vừa làm một việc mà tôi không ngờ được: miệng tôi đã thốt ra những lời nói về Chúa Giê-xu. Tôi đã làm chứng về Ngài mặc dầu chẳng ai dạy tôi như vậy cả. tôi đang bắt đầu đi trên con đường hẹp, Chúa Giê-xu đã chú ý đến tôi, bảo vệ tôi cho đến khi tôi giựt được sự giải phóng lớn lao của Ngài, chân tôi đang đi trên đường hẹp. Tôi đã bắt đầu bước tới sự tự do.

(Còn tiếp)