Lời Kinh Thánh

Hãy tin Đức Chúa Jesus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. Kinh Thánh - Công Vụ Các Sứ đồ 16: 31

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Quá Khứ Hiện Tại Tương Lai



 “Khốn cho kẻ chống lại Đấng sáng tạo mình”

Có ai không nghĩ đến đời mình, người thân, người đồng loại? Ai nấy đều muốn có một cuộc sống an vui, không phiền muộn. Nhưng mấy ai được toại nguyện? Đời đâu để chúng ta yên? Mơ ước nhiều thì thất vọng nhiều. Cái khó là không ai loại trừ được những ham muốn, tranh chấp, hận thù, gian ác…đang len lỏi trong lòng. Nó luôn gây xáo trộn, gây bất an. Làm sao sống thoải mái, vui thỏa giữa chợ đời?


Chuyện quá khứ trên quê nhà còn đó, dù đã mấy thập niên qua rồi. Một bài học mà mấy ai chịu rút tỉa bài học?


Hôm nay đất nước mình đâu khác gì tình trạng đất nước Do Thái ngày nào, lúc chưa bị đánh hạ, dân chưa bị lưu đày biệt xứ! Cấp lãnh đạo “trị dân mà không biết chính trị, tạo nên tình trạng hỗn loạn” trên toàn quốc. “Công lý bị đẩy lui, công bằng bỏ chạy, chân lý vấp ngã giữa công trường, lẽ phải không thể nào chen chân vào giữa xã hội”. . Người dân thì vẫn coi thường, chối bỏ, quên Đấng Tạo Hoá,“thờ lạy hình tượng hão huyền; xây lưng, từ khước lòng thương xót Chuá dành cho mình”, tạc thêm tượng thờ khắp hang cùng ngõ hẻm từ Nam ra Bắc, nhất là tạc hình con rồng ( hiện thân của Quỉ vương hay Sa-tan), chọc giận Thượng Đế, thì tìm đâu được bình an và chữa lành?
Lời Chuá cho biết: “ Những kẻ ngoan cố khước từ Ta, sẽ giống như biển động, không bao giờ an tịnh… Bọn người ấy chẳng bao giờ được bình an”.
Bạn đã nghe nói nhiều về dân tộc Do Thái, tuyển dân của Đức Chuá Trời? Bao nhiêu tiên tri Chúa dùng để khuyên dạy, mời gọi, cảnh cáo họ đừng theo thói tục người ngoại bang, thờ cúng các thần lạ, quỳ lạy dưới các tượng vô tri bất động, vi phạm huấn lệnh sẽ gặt lấy tai họa diệt vong cho đất nước.
Lời Chuá nói rõ: “Nếu các ngươi sẵn lòng vâng lời, Ta sẽ cho các ngươi no nê sung mãn; nhưng nếu còn ngoan cố, chống nghịch, các ngươi sẽ bị quân thù tàn sát. Ta quả quyết như vậy!”
Lời kêu gọi, lời cảnh cáo, như gió thỏang qua tai. Dân tộc Do Thái vẫn kiêu căng, cứng lòng, phản nghịch dù bị trừng phạt nặng nề, đất nước bị tàn phá, thành phốbị thiêu hủy, quân thù thẳng tay cướp phá, bóc lột ngay trước mắt, đâu đâu cũng thấy cảnh tượng điêu tàn. Họ ứa nước mắt nhìn non sông bị dày xéo, bị phá hoại tang thương, nhưng vẫn không chịu ăn năn quay về với Chúa Hằng Hữu. Lịch sử ghi lại:
-Năm 721 Trước Chuá, Y-sơ-ra-ên (miền Bắc) bị cường quốc A-si-ri tiêu diệt. Giu-đa (miền Nam) thì phải triều cống.
-Năm 586 Trước Chuá, thành Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lôn bao vây, và làm cho hoang vu.
-Năm 70 Sau Chuá, bị đế quốc La-mã đánh cho một trận đòn chí tử, quốc gia tan tác chẳng còn gì! Dân sống sót phải bị lưu đày biệt xứ từ đó.
-Năm 1948, Chuá “đem từng người Y-sơ-ra-ên về nước, như người ta lượm từng hạt trên sân đạp lúa”, tái lập quốc gia Y-sơ-ra-ên (có Hoa-kỳ hậu thuẫn) sau hơn 14 thế kỷ dân bị lưu đày, sống rải rác trên khắp thê giới.
Nếp sống tội ác trong quá khứ của dân tộc Do Thái đã bị Thượng Đế đoán phạt không phải là vô cớ. Họ bị lưu đày vì tội phản nghịch, tội chối bỏ Đấng Hằng Hữu, tội thờ lạy thần tượng hư không, bói toán, đồng bóng… Lý do họ được trở về cố hương như lời Kinh Thánh tiết lộ: “ Vì sao Chuá làm việc ấy? Chỉ vì mục đích thanh tẩy gian ác của Y-sơ-ra-ên, dẹp sạch các bàn thờ và thần tượng”. Vì lời Chuá hứa cùng tổ phụ họ (Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp), dân Do Thái đã được hồi hương, vềsống ngay trên vùng đất Chuá đã hứa ban cho tổ phụ họ làm cơ nghiệp, chiếm hữu lại đất nước đã bị người ta cưỡng đoạt hàng nghìn năm qua. Chuyện thật lạ lùng? Chuá phán: “ Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! Ta đem các ngươi về quê hương không phải vì các ngươi xứng đáng, nhưng để bảo vệ Danh Thánh Ta mà các ngươi đã làm lu mờgiữa các dân”
“Y-sơ-ra-ên là cơ nghiệp Ta”.
“Giê-ru-sa-lem sẽ an nhiên thịnh vượng như dòng sông tuôn tràn, Ta sẽ thực hiện điều đó” Chuá Toàn Năng phán vậy.
Chuáđã long trọng thề rằng: “ Ta sẽ chẳng bao giờ nộp ngươi vào tay quân địch, chẳng bao giờ cho quân xâm lăng cướp nồi gạo và bình rượu nho ngươi”
“Y-sơ-ra-ên là vườn nho Ta. Ta, Đấng Hằng Hữu bảo vệ nó, tưới nước liên tiếp và chăm sóc ngày đêm, không cho ai phá hoại”
Sau một vài thập niên hồi hương, dân Do Thái lo tái thiết đất nưóc, bị khối Ả-rập (Ai-cập, Syria, Lebanon, Jordan, Iraq) đồng loạt tiến công. Hoa kỳ ra tay trợgiúp Do Thái, khiến khối Ả-rập ngậm đắng nuốt cay. Chuyện đã xảy ra đúng nhưlời Chuá hứa: “ Ai phá hoại họ sẽ bị Ta trừng phạt”.
Đất nước Do Thái còn đó! Dân tộc Do Thái còn đó! Chuá dùng họ làm gương – gương quởphạt- để cảnh cáo cho các dân tộc: “ Quốc gia nào không chịu vâng lời Ta, sẽlại bị trục xuất ra khỏi đất nước chúng và bị tiêu diệt”
Cái quá khứ nói về dân tộc Chân-lạp , Chiêm Thành – gương trước mắt - bị xóa tên trên bản đồ thế giới từ lâu vì tội thờ cúng các thần lạ… nay còn lại là tháp Chàm nằm rải rác, hiu quạnh trên đất nướcViệt Nam, là dấu tích họ chối bỏ Cha Thiên Thượng. Một số ít còn sống sót, đang sống ngay trên mảnh đất ông cha mình mà đã bị đổi tên đổi họ từ ngày nào! Còn Tương Lai?
Chuyện quá khứ, hiện tại, tương lai - đối với con ngươì - chỉ là chuỗi thời gian tính theo ngày, tháng, năm, theo ánh sáng mặt trời mọc, lặn. Hiện tại đến ngày mai thành quá khứ. Tương lai trở thành hiện tại, rồi thành quá khứ!. Có gì còn lại? Thế hệ nầy nằm xuống, thế hệ sau tiếp nối. Con người vẫn phải sống rồi lìa đời theo cái chu kỳ vô nghĩa?
Tạo dựng tất cả mọi loài, Chuá nhìn thấy lòng người lúc nào cũng tìm cách làm theo theo điều mình ưa thích, bất kể hậu quả! Có lắm kẻ không chịu nhìn biết trên cao còn có Cha Thiên Thượng. Vì lẽ đó Chuá dùng thiên nhiên cảnh cáo, dùng các tiên tri nhắc nhở, dùng lời Ngài dạy dỗ, dùng chiến tranh, đói kém, ôn dịch trừng phạt, nhưng con người vẫn quay lưng… Dù gì đi nữa Chuá vẫn yêu thương con người, vì Ngài biết “ Tất cả giống như đàn chiên lạclối; mỗi người tẻ táchđường ngay, chọn riêng một nẻo đường cong queo”.
Lời mời gọi: “Hãy tìm kiếm Chúa khi Ngài còn cho gặp, hãy kêu xin khi Ngài còn ởgần. Con hãy loại bỏ những việc gian ác, các tư tưởng xấu xa! Hãy quay về với Chúa; Ngài sẽ thương xót con; hãy trở lại với Chân Thần vì Ngài khoan dung vô hạn”.
Nguyễn Đình Cổn